Quan hệ đẳng lập là gì năm 2024

Ở cấp độ từ: quốc gia, nhà nước, áo quần, đi đứng, ăn mặc, chào hỏi, vui buồn, ốm yếu, no ấm, vuông tròn...

Ở cấp độ cụm từ, quan hệ giữa các từ và các cụm từ cũng có mối quan hệ đẳng lập:

Quan hệ đẳng lập là gì năm 2024

Quan hệ đẳng lập là gì năm 2024

3. Quan Hệ Chủ Vị.

Quan hệ này thiết lập nên mệnh đề, cấu trúc câu. Thường thì khi có một câu trúc C - V, là có cơ sở để tạo thành một phát ngôn từ bình diện cấu trúc ngữ pháp. Môi quan hệ này diễn ra giữa một đối tượng được đề cập đến trong phát ngôn mà ta gọi là C và một thành phần có nhiệm vụ thuyết minh những đặc trưng của đối tượng được đề cập đến mà ta gọi là V. Nói cách khác, vị ngữ của câu xác định những điều gì trước đó chưa được xác định. Còn chủ ngữ là cái đề tài chung được câu xác định bằng những thuộc tính mới ( do vị ngữ đem lại ). Nó là sản phẩm của cách suy nghĩ trước đó, làm thành cái cơ sở và cái xuất phát điểm cho sự phát triển tiếp theo. Sự phát triển tiếp theo đó là vị ngữ. Mối quan hệ này chỉ diễn ra ở cấp mệnh đề. Từ, cụm từ không có mối quan hệ C - V.

Quan hệ đẳng lập là gì năm 2024

Quan hệ đẳng lập là gì năm 2024

4. Quan Hệ Đề Thuyết.

Một số quan niệm thông thường cho rằng, sự phân chia đề-thuyết là sự phân chia giữa thông báo cũ và thông báo mới: Ðề là cái mà người nói dự đoán là người nghe đã biết sẵn. Thuyết là cái mà người nói cho là người nghe chưa biết. Thật ra, khái niệm cái cũ, cái cho sẵn, và khái niệm cái mới, cái chưa biết còn có những vấn đề cần phải được bàn đến thấu đáo.

Khi một người nói với một người khác: Mẹ tôi chưa gặp mẹ anh. thì người nghe rất có thể không hề biết mẹ người nói là ai, mặc dù đó là phân đề của câu. Trái lại, người nghe hẳn phải biết mẹ mình, mặc dù đó là một bộ phận của phần thuyết. Vậy khái niệm cũ và mới trong phát ngôn phải được hiểu một cách khác.

Cái cũ hay cái cho sẵn, là cái mà người nói, căn cứ vào tình huống của cuộc đối thoại mà ức đoán là đang có mặt trong ý thức của người nghe lúc mình sắp nói. Còn cái mới là cái mà người nói cho là không có mặt trong ý thức của người nghe lúc bấy giờ. Ta thấy rõ tính chất thiếu chính xác của những thuật ngữ khá thông dụng như cái đã biết và cái chưa biết.

Thông thường, người nói có xu hướng chọn cái cũ làm đề, tức là làm xuất phát điểm cho sự nhận định, và để phần có giá trị thống báo thực sự (cái mới) ra sau. Ðó là một cách tổ chức phát ngôn thuận tiện và giản dị. Ðó cũng là cách đơn giản nhất để đảm bảo sự mạch lạc của ngôn bản hay văn bản.

Trong một câu như Hôm nay tôi sẽ sửa cái máy này. , thì cái mới tùy theo từng tình huống, ngôn cảnh, và có thể là bất cứ từ nào, phần nào. Chẳng hạn, nếu trước đó có một câu hỏi:

Hôm nay anh sẽ làm gì ? thì cái mới sẽ là sửa cái máy này , còn nếu câu hỏi là:

Hôm nay anh sẽ sửa cái máy nào ? thì cái mới sẽ là này, còn nếu câu hỏi lại là:

Hôm nay ai sẽ sửa cái máy này ? thì cái mới sẽ là tôi, còn nếu câu hỏi là:

Hôm nào anh sửa cái máy này ? thì cái mới sẽ là nay, còn nếu câu hỏi lại là:

Hôm nay người nào sẽ sửa máy nào ? thì cái mới sẽ là tôi và cái...này...

và nếu đồng nhất đề với cái cũ, thuyết với cái mới, thì câu này sẽ có đến năm sáu cấu trúc đề-thuyết khác nhau, nghĩa là phải coi đó là năm sáu câu (hay năm sáu phát ngôn) khác nhau.

Trong những câu mà phần đề và phần thuyết đều là tiểu cú ( là những cấu trúc đề-thuyết ), thì phần đề của câu bao giờ cũng là một khung đề. Chẳng hạn:

Quan hệ đẳng lập là gì năm 2024

Nhưng nếu hai chủ đề của hai tiểu cú cùng một sơ chỉ, thì theo quy tắc lược bỏ danh ngữ đồng sở chỉ chủ đề của tiểu cú làm thuyết của câu sẽ chỉ còn phần thuyết nữa thôi, như trong câu sau đây:

Câu 1: Trình bày các loại nghĩa của từ và cho ví dụ minh họa

tải về 81.01 Kb.

trang12/17Chuyển đổi dữ liệu14.12.2022Kích81.01 Kb.

53978

[123doc] - de-cuong-on-tap-cau-hoi-ly-thuyet-mon-dan-luan-ngon-ngu

Điều hướng trang này:

Câu 14: Trình bày các quan hệ ngữ pháp và ví dụ:

Có ba loại quan hệ ngữ pháp:

  1. Quan hệ đẳng lập:
  2. Quan hệ đẳng lập là quan hệ giữa các thành tố không phụ thuộc vào nhau trong đó chức vụ cú pháp của các thành tố chỉ được xác định khi đặt toàn bộ tổ hợp do chúng tạo nên vào một kết cấu lớn hơn.
  3. Ví dụ: tổ hợp “mẹ và con” gồm hai thành tố: “mẹ”, “con” có quan hệ đẳng lập với nhau. Chức vụ của từng thành tố chỉ được xác định khi đặt tổ hợp đó vào những kết cấu lớn hơn. So sánh:
  4. Mẹ và con cùng đi chơi. (“mẹ”, “con” làm chủ ngữ)
  5. Họ thấy mẹ và con. (“mẹ”, “con” là bổ ngữ)
  6. Những người chăm chỉ là mẹ và con nhà ông Ba. (“mẹ”, “con” là vị ngữ)

2. Quan hệ chính phụ:

  • Quan hệ chính phụ là quan hệ phụ thuộc một chiều giữa một thành tố chính với một thành tố phụ, trong đó chức vụ cú pháp của thành tố chính chỉ được xác định khi đặt toàn bộ tổ hợp chính phụ vào một kết cấu lớn hơn, còn chức vụ của thành tố phụ có thể được xác định mà không cần điều kiện ấy.
  • Ví dụ: “học tiếng Anh” là một tổ hợp mang quan hệ chính phụ trong đó “học” là thành tố chính, “tiếng Anh” là thành tố phụ. Trong tổ hợp trên “tiếng Anh” có chức vụ làm bổ ngữ cho động từ “học”, còn thành tố chính có chức năng gì phải tùy thuộc vào kết cấu nó tham gia. So sánh:
  • Chúng tôi học tiếng Anh (“học” là vị ngữ)
  • Học tiếng Anh rất có ích (“học” là chủ ngữ) 3. Quan hệ chủ vị:
  • Quan hệ chủ - vị là quan hệ giữa hai thành tố phụ thuộc lẫn nhau trong đó chức vụ cú pháp của cả hai đều có thể được xác định mà không cần đặt tổ hợp do chúng tạo nên vào một kết cấu lớn hơn.
  • Ví dụ: “Xe chạy” là một tổ hợp mang quan hệ chủ - vị trong đó “xe” là chủ ngữ và “chạy” là vị ngữ. Cả hai thành tố đó qui định lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau mà tồn tại, “xe” là chủ ngữ do nó được xác định bởi vị ngữ “chạy”, ngược lại “chạy” là vị ngữ do có chủ ngữ “xe” ở bên cạnh. Trong tổ hợp “Ồn quá!” thì dù đó là một câu, “ồn” cũng không thể là chủ hay vị vì nó đứng một mình, tạo thành câu một trung tâm

    Chia sẻ với bạn bè của bạn: