Luận văn định hướng nghề nghiệp cho học sinh thpt năm 2024

  • 1. KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ HẰNG XU HƢỚNG CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH TÂY NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC HÀ NỘI, 2019
  • 2. KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ HẰNG XU HƢỚNG CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH TÂY NINH Ngành: Tâm lý học Mã số: 8.31.04.01 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN THỊ QUY HÀ NỘI, 2019
  • 3. xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nào. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Hằng
  • 4. .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ...................................................................... 11 1.1. Một số khái niệm cơ bản........................................................................ 11 1.2. Đặc trưng tâm lý của học sinh trung học phổ thông............................... 17 1.3. Biểu hiện xu hướng chọn nghề của học sinh trung học phổ thông.......... 22 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng chọn nghề của Học sinh trung học phổ thông.................................................................................................. 31 Chƣơng 2: TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................................................................................ 36 2.1. Tổ chức nghiên cứu.................................................................................. 36 2.2. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................... 36 Chƣơng 3: THỰC TRẠNG XU HƢỚNG CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH TÂY NINH ........................... 42 3.1. Vài nét về khách thể nghiên cứu.............................................................. 42 3.2. Thực trạng xu hướng chọn nghề của học sinh trung học phổ thông tỉnh Tây Ninh .................................................................................................. 43 KẾT LUẬN.................................................................................................... 78 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 81
  • 5. CHỮ VIẾT TẮT ĐLC Độ lệch chuẩn ĐTB Điểm trung bình HS Học sinh THPT Trung học phổ thông TB Thứ bậc SL Số lượng
  • 6. BẢNG BIỂU Bảng 1.1. Phân loại nhóm nghề theo E. A. Klimov..................................................13 Bảng 3.1. Nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của việc chuẩn bị nghề cho tương lai ....................................................................................................................44 Bảng 3.2. Nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của các nghề trong xã hội ....45 Bảng 3.3. Nhận thức của học sinh về nghề phù hợp với bản thân............................48 Bảng 3.4. Nhận thức của học sinh về nghề phù hợp với bản thân xét theo học lực .50 Bảng 3.5. Thái độ của học sinh khi tham gia giờ học (sinh hoạt) hướng nghiệp .....55 Bảng 3.6. Những vấn đề học sinh lớp 12 có nguyện vọng .......................................56 Bảng 3.7. Những nghề được học sinh yêu thích.......................................................58 Bảng 3.8. Dự định lựa chọn nghề của HS sau khi tốt nghiệp THPT ........................63 Bảng 3.9: Hành vi của HS khi tham gia các giờ học (sinh hoạt) hướng nghiệp.......65 Bảng 3.10. Những vấn đề HS lớp 12 quan tâm khi lựa chọn nghề nghiệp...............66 Bảng 3.11. Những khó khăn HS lớp 12 gặp phải khi lựa chọn nghề nghiệp............68 Bảng 3.12. Mức độ các hình thức chuẩn bị nghề của học sinh.................................70 Bảng 3.13: Các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng chọn nghề của học sinh ...............72 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 3.1. Mức độ lo lắng cho việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh...............54 Biểu đồ 3.2. Mức độ hứng thú của HS với nghề đã chọn.........................................60
  • 7. cấp thiết của đề tài Con người sinh ra và lớn lên, ai cũng mong muốn học tập và lựa chọn cho mình một nghề nghiệp lâu dài. Với một công việc thích hợp, chúng ta có thể phát huy được tất cả những ưu điểm của mình. Chọn cho mình một nghề phù hợp, nghĩa là chọn cho mình một tương lai, lựa chọn sai lầm một nghề nghĩa là đặt cho mình một tương lai không thực sự an toàn và vững chắc. Vì vậy, việc chọn nghề thực sự quan trọng và vô cùng cần thiết đối với tất cả mỗi người. Đất nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã mang lại một diện mạo mới năng động, trẻ trung và hết sức sôi động; kinh tế đổi thay, sự năng động và liên kết toàn cầu đã đem lại cho mỗi người nhiều cơ hội to lớn trong đó có cơ hội về việc làm. Tuy nhiên thực trạng nguồn nhân lực của Việt Nam chưa đáp ứng kịp được với sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Lao động trong nước phần đông là lao động phổ thông, trình độ thấp, không được đào tạo bài bản. Vì vậy, việc chuẩn bị cho thế hệ trẻ có được những phẩm chất và năng lực nghề nghiệp vững chắc phù hợp với nhu cầu của các hoạt động kinh tế -xã hội, khoa học, công nghệ là một vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng mang tính chiến lược. Trong luật giáo dục năm 2005, điều 27 đã xác định mục tiêu giáo dục trung học phổ thông: “Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của học sinh trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy tính tích cực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”. [28] Lựa chọn đúng một ngành nghề để học, để làm sau khi ra trường là một việc làm không hề dễ dàng đối với nhiều người và đặc biệt là đối với học sinh trung học phổ thông (THPT). Nếu HS chọn được cho mình một nghề phù hợp sẽ giúp cho các em phát huy tối đa năng lực của bản thân vào ngành nghề mà mình đã lựa chọn. Đồng thời nó còn đáp ứng được nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội. Ngược
  • 8. em không biết chọn nghề gì hay chọn sai nghề sẽ mất nhiều thời gian để học lại ngành khác, còn tiếp tục học sẽ dẫn đến tình trạng chán nản, học không tập trung, bỏ giữa chừng… Điều này không chỉ gây hậu quả đối với bản thân người học như mất nhiều thời gian, kinh phí đào tạo, khó tìm việc làm, làm trái nghề… Đối với xã hội, chất lượng nguồn nhân lực yếu kém do không thích hợp với nghề, năng lực không đáp ứng được những đòi hỏi của nghề sẽ gây hậu quả không nhỏ đến sự phát triển nền kinh tế. Vì vậy, việc chọn nghề, định hướng nghề nghiệp cho học sinh THPT để đáp ứng nhu cầu xã hội là một việc quan trọng. Sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, học sinh thường có mong muốn được vào các trường cao đẳng, đại học để có một nghề nghiệp nhất định. Tuy nhiên, sự hiểu biết của các em về nghề nghiệp mà các em lựa chọn cũng như các yêu cầu của nghề đó, những khả năng của bản thân để đáp ứng yêu cầu đối với nghề nghiệp còn rất hạn chế. Nhiều em còn lúng túng chưa định hướng được tương lai cho cuộc sống của bản thân, cho nên khi chọn nghề thường không có sự cân nhắc, theo cảm tính. Điều này có ảnh hưởng lớn đến quá trình hoạt động nghiệp của các em. Vì vậy, để lựa chọn một ngành nghề phù hợp là vấn đề được nhiều bạn trẻ quan tâm. Nhận thấy tầm quan trọng của hướng nghiệp ảnh hưởng nhiều đến việc lựa chọn nghề nghiệp của HS và phân luồng lao động, nên từ lâu đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về công tác hướng nghiệp. Tuy nhiên, xu hướng chọn nghề của học sinh THPT tại tỉnh Tây Ninh chưa được quan tâm khảo sát. Do vậy, việc nghiên cứu xu hướng chọn nghề của HS trong điều kiện hiện nay có một ý nghĩa thực tiễn to lớn. Qua đó, ta sẽ hiểu được xu hướng chọn nghề của các em để có thể xây dựng kế hoạch nhằm giúp đỡ, điều chỉnh sự định hướng nghề đúng đắn cho HS. Xuất phát từ những lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài: “Xu hướng chọn nghề của học sinh trung học phổ thông tỉnh Tây Ninh”. 2. Tình hình nghiên cứu 2.1. Trong nƣớc Lĩnh vực hướng nghiệp và giáo dục hướng nghiệp từ lâu đã được quan tâm tại Việt Nam. Tuy nhiên, những nghiên cứu chuyên biệt mới được thực hiện từ những năm 1980 trở về đây.
  • 9. nghiên cứu của Đức Minh (chủ biên) cùng tập thể các tác giả thuộc Viện khoa học giáo dục: “Một số vấn đề tâm lý học sư phạm và lứa tuổi học sinh Việt Nam”. Trong nghiên cứu này, các tác giả cho biết: Đa số HS có xu hướng đạt trình độ học vấn đại học trước khi đi vào lao động. Xu hướng chọn nghề của nam và nữ có sự khác nhau không chỉ ở lứa tuổi mà còn cả đặc điểm giới tính quy định nữa. Từ hứng thú nghề nghiệp của nam và nữ, từ đó các tác giả đi đến tìm hiểu những yếu tố tác động đến sự hình thành xu hướng nghề nghiệp của HS THPT. Tuy nhiên, trong công trình này các tác giả chưa đề cập đến thực trạng nhận thức nghề của HS cũng như ảnh hưởng của nó đến việc lựa chọn nghề của HS. [29] - Tác giả Nguyễn Ngọc Bích trong công trình nghiên cứu: “Động cơ chọn nghề của thanh niên” đã nghiên cứu động cơ chọn nghề của thanh niên HS, kết quả nghiên cứu cho thấy: Động cơ bên trong nổi bật hơn động cơ bên ngoài. Nam thanh niên xếp động cơ chọn nghề theo thứ tự sau: Khả năng của bản thân, tính chất quan trọng của nghề nghiệp, khả năng đáp ứng được yêu cầu của công việc. Nữ thanh niên xếp động cơ chọn nghề theo thứ tự sau: Do yêu cầu của nhà nước, vị trí xã hội của nghề nghiệp, thực hiện được khả năng của mình. Theo tác giả việc lựa chọn ngành nghề của cả nam và nữ có sự khác nhau. Tác giả chỉ đưa ra một số động cơ tiêu biểu có liên quan đến sự lựa chọn nghề của HS và đánh giá động cơ nào là quan trọng với họ, nhưng chưa quan tâm đến vấn đề nhận thức nghề nghiệp. [2] - Tác giả Nguyễn Quang Uẩn với tác phẩm: “Tâm lý học xã hội và sự nghiệp đổi mới đất nước”. Trong công trình này tác giả nghiên cứu xu hướng nghề nghiệp của học sinh theo các chỉ số: Mức độ nhận thức nghề, tính ổn định của thái độ đối với nghề; từ đó tác giả đã đưa ra những đặc điểm chung về xu hướng nghề của học sinh THPT, xác định được những nghề mà HS biết nhiều nhất cũng như thái độ đánh giá của HS đối với nghề. Tác giả còn cho biết, nhận thức về nghề của HS còn yếu, số nghề và các trường chuyên nghiệp được HS biết đến chưa nhiều. Hứng thú của HS đối với nghề nghiệp hình thành muộn, chưa tập trung và rõ nét. [42] - Tác giả Phạm Tất Dong đã có nhiều công trình nghiên cứu lí luận và thực tiễn về hứng thú, động cơ và nhu cầu nghề nghiệp, xu hướng chọn nghề. Đồng thời
  • 10. hệ thống các quan điểm, nguyên tắc hướng nghiệp, nội dung, phương pháp, biện pháp hướng nghiệp cho HS. Điều này được thể hiện trên rất nhiều bài báo cáo, bài báo, tạp chí, sách của ông như báo cáo: “Hướng nghiệp cho thanh niên” (1982). Các tác phẩm như: “Giúp bạn chọn nghề” (1968); “Hoạt động giáo dục trong trường phổ thông” (2000); Hay cuốn “Sự lựa chọn cho tương lai” (2000). Các tác phẩm của ông đã đưa ra những cơ sở khoa học của việc lựa chọn nghề nghiệp cho phù hợp của học sinh. Đối với học sinh, hứng thú môn học, hứng thú nghề nghiệp có tác dụng thúc đẩy việc lựa chọn nghề và thực hiện được khả năng của mình là động cơ mạnh nhất, quan trọng nhất. [6], [7], [8] - Tác giả Trần Quốc Thành với công trình nghiên cứu “Định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp 12 trung học phổ thông một số tỉnh miền núi phía Bắc” đã đề cập đến tầm quan trọng của việc định hướng nghề nghiệp, nhận thức về nghề nghiệp, xu hướng chọn nghề và những nhân tố ảnh hưởng đến sự định hướng giá trị nghề nghiệp của HS. Trong đó, vai trò của gia đình, bạn bè và các giá trị vật chất về nghề nghiệp có xu hướng được đề cao trong quá trình định hướng nghề nghiệp của thế hệ trẻ. [40] - Các tác giả Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Văn Lê nghiên cứu định hướng nghề nghiệp với công trình “ Xu hướng chọn nghề nghiệp của học sinh lớp 12 trường trung học phổ thông dưới ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường”, kết luận: Đa số học sinh THPT chưa được định hướng nghề phù hợp. Sau khi tốt nghiệp THPT một bộ phận lớn HS sẵn sàng tham gia vào thị trường lao động mà không tiếp tục học lên. Định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT phụ thuộc rất nhiều vào công tác giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường. Tuy nhiên các hoạt động giáo dục hướng nghiệp có vai trò mờ nhạt. Nguyên nhân một phần là do bản thân người làm công tác hướng nghiệp chưa có sự phát triển phù hợp cả về thái độ lẫn năng lực hiểu biết về nghề nghiệp. [25] - Kết quả nghiên cứu về lí luận và thực tiễn trong công tác hướng nghiệp cho học sinh THPT ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Văn Hộ đã xây dựng được luận chứng cho hệ thống giáo dục hướng nghiệp trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội của
  • 11. 2006, ông xuất bản cuốn sách “Hoạt động giáo dục hướng nghiệp và giảng dạy kỹ thuật trong trường trung học phổ thông”. Tác phẩm đã trình bày một cách có hệ thống về cơ sở lí luận cũng như vấn đề tổ chức giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường THPT trong giai đoạn hiện nay. [16] - Tác giả Huỳnh Văn Sơn nghiên cứu về: “Xu hướng chọn nghề của học sinh cuối cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông tỉnh Bình Dương hiện nay”, đã đề cập đến xu hướng chọn nghề của học sinh THPT. Kết quả cho thấy, việc lựa chọn con đường để vào đời bằng thi tuyển vào các trường trung học chuyên nghiệp, đặc biệt là cao đẳng, đại học vẫn là ưu tiên hàng đầu của học sinh. Từ đó ông đưa ra các ngành nghề mà học sinh lựa chọn, nguyên nhân mà học sinh lựa chọn ngành nghề đó. [36] - Tác giả Huỳnh Công Tú trong cuốn “Lựa chọn nghề nghiệp- điều quan trọng số một của cuộc đời”, đã trình bày một số vấn đề liên quan đến lựa chọn nghề nghiệp và giới thiệu một số ngành nghề ở Việt Nam và thế giới. Theo tác giả, sau khi tốt nghiệp THPT, HS nên học nghề hay đi theo con đường học cao đẳng, đại học? HS có cần theo đuổi một nghề nghiệp suốt đời? Từ đó, tác giả đưa ra các cách thức để lựa chọn nghề phù hợp với hứng thú, nhu cầu, nguyện vọng của mỗi HS. Tuy nhiên trong công trình này một số ngành nghề tác giả giới thiệu quá ngắn gọn chỉ dừng lại ở mức giới thiệu tên chứ chưa cung cấp thông tin về nghề nghiệp. [39] Như vậy, có thể nói rằng, ở Việt Nam cũng đã có rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến lĩnh vực nghề nghiệp. Những kết quả đó là tiền đề để tiếp tục nghiên cứu vấn đề này vào thời điểm hiện nay, khi đất nước đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Các công trình nghiên cứu đã nêu lên được thực trạng chọn nghề của học sinh THPT: Hứng thú nghề, động cơ chọn nghề, nhu cầu chọn nghề… Tuy nhiên vấn đề xu hướng chọn nghề của học sinh THPT chưa được các tác giả quan tâm một cách thỏa đáng. 2.2. Trên thế giới Trên thế giới, lĩnh vực nghề nghiệp được các tác giả quan tâm từ lâu, chủ yếu các vấn đề sau đây:
  • 12. xuất hiện đầu tiên vào giữa thế kỷ XIX ở Châu Âu với sự ra đời của tác phẩm “Hướng dẫn chọn nghề” vào năm 1848. Nội dung đã đề cập đến sự phát triển đa dạng của các ngành nghề trong xã hội do sự phát triển của công nghiệp; từ đó đã rút ra những kết luận coi giáo dục hướng nghiệp là một vấn đề quan trọng không thể thiếu khi xã hội ngày càng phát triển và cũng là nhân tố thúc đẩy xã hội phát triển. Sau đó vào những năm 1840 đến 1940 việc nghiên cứu hướng nghiệp gắn liền với những tác giả như Francis Galton, Wilheim Wundt, James Cattell, Alfred, Binet, Frank Parson, Robert Yekes và E.K. Strong. Các nghiên cứu này đề cập đến những cơ sở ban đầu về hướng nghiệp và tham vấn hướng nghiệp. [14] - Vào những năm 1940 J. L. Holland đã nghiên cứu và thừa nhận sự tồn tại của các loại nhân cách và sở thích nghề nghiệp. Tác giả đã chỉ ra tương ứng với mỗi kiểu nhân cách là một số những nghề nghiệp tương xứng có thể chọn để đạt được kết quả làm việc và thành công nghề nghiệp cao nhất. Lý thuyết này của J. L. Holland đã được sử dụng rộng rãi nhất trong thực tiễn hướng nghiệp trên thế giới. Đến năm 1974, trong công trình “Nghiên cứu định hướng” ông cho rằng những dụng cụ tư vấn, những đặc điểm môi trường và con người dẫn đến việc lựa chọn nghề, học nghề, gắn bó và thành công với nghề nghiệp của con người. [47] - E. M Pavlưuchenkov trong công trình nghiên cứu “Động cơ chọn nghề” đã đưa ra một hệ thống 9 nhóm động cơ nghề, bao gồm: Động cơ xã hội; động cơ đạo đức; động cơ thẩm mỹ; động cơ nhận thức; động cơ sáng tạo; động cơ có liên quan đến các nội dung của lao động; động cơ vật chất; động cơ danh vọng; các động cơ khác. Ông khẳng định, những động cơ chiếm ưu thế quan trọng và chủ đạo là động cơ đạo đức và động cơ xã hội. Theo tác giả, động cơ chọn nghề phụ thuộc rất nhiều vào tính tích cực lao động của HS. Những HS tích cực tham gia các hoạt động liên quan đến học tập, lao động thì có động cơ chọn nghề tối ưu hơn các HS khác. Ở đây tác giả chỉ đưa ra các kiểu HS có động cơ nào trội hơn mà chưa đưa ra mô hình cấu trúc cụ thể đối với từng loại HS. [3]
  • 13. năm 1970, các nhà giáo dục Liên Xô như B.F. Kapeep, X. Ia. Batưsep, X.A. Sapôrinxki, V. A Pôliacô trong các tác phẩm và công trình nghiên cứu của mình đã chỉ ra tầm quan trọng của giáo dục hướng nghiệp và định hướng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ sẽ là cơ sở để họ lựa chọn nghề đúng đắn. Trong các tác phẩm của mình, các tác giả đã chỉ ra mối quan hệ giữa hướng nghiệp và các hoạt động sản xuất xã hội, và nếu sớm thực hiện giáo dục hướng nghiệp cho thế hệ trẻ thì đó là cơ sở để họ chọn nghề đúng đắn, có sự phù hợp giữa năng lực, sở thích cá nhân với nhu cầu xã hội. Đồng thời, các tác giả cũng đã trình bày những nguyên tắc, phương pháp thực hành lao động nghề nghiệp cho HS phổ thông tại các cơ sở học tập- lao động liên trường, phù hợp giữa năng lực, sở thích cá nhân với nhu cầu xã hội. [47] - H. Perho nhà tâm lý học người Phần Lan đã tiến hành nghiên cứu “Định hướng nghề nghiệp và nghệ thuật sư phạm trong đào tạo giáo viên phổ thông” Kết quả cho thấy, trong động cơ học tập của sinh viên, ước muốn nhận được điểm cao mạnh hơn ước muốn trở thành người thầy giáo giỏi. Qua đó ông muốn cảnh báo và tổ chức lại hệ thống (quy trình) tuyển sinh ngành sư phạm. V.Volamen cũng nghiên cứu về định hướng nghề nghiệp và thích ứng việc làm ở thanh niên. Kết quả cho thấy, những đánh giá chủ quan của thời kỳ học nghề ảnh hưởng mạnh mẽ đến định hướng nghề nghiệp của thanh niên nhiều hơn so với thời kỳ làm việc đầu tiên và phụ thuộc vào quá trình thích ứng nghề nghiệp của thanh niên. Đồng thời, Z. Ransenbakh cũng nghiên cứu về định hướng nghề nghiệp gắn với định hướng giá trị và các cuộc sống của sinh viên. Những công trình đó cho chúng ta góc nhìn cận cảnh hơn về định hướng nghề nghiệp của thanh niên, sinh viên. [9] Như vậy, các tác giả trên đều đưa ra nhiều góc độ về hướng nghiệp và định hướng nghề nghiệp. Tuy nhiên chưa có tác giả nào đi sâu vào nghiên cứu xu hướng chọn nghề của HS THPT. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứ lí luận và thực trạng về xu hướng chọn nghề của học sinh THPT trên địa bàn tỉnh Tây Ninh, đề xuất một số biện pháp tâm lý giáo dục giúp học sinh có xu hướng chọn nghề phù hợp.
  • 14. nghiên cứu Để hoàn thành được mục đích nghiên cứu của đề tài, tôi thực hiện các nhiệm vụ sau: 1) Xây dựng cơ sở lí luận về xu hướng chọn nghề của học sinh trung học phổ thông. 2) Điều tra, nghiên cứu, đánh giá thực trạng về xu hướng lựa chọn nghề của học sinh trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. 3) Đề xuất một số biện pháp giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Xu hướng chọn nghề của học sinh trung học phổ thông tỉnh Tây Ninh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu 4.2.1. Phạm vi về nội dung nghiên cứu Xu hướng là một đề tài rất rộng, phong phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi nghiên cứu các thành tố của xu hướng chọn nghề bởi vì các thành tố của xu hướng chọn nghề trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau sẽ tạo thành động cơ mạnh mẽ thúc đẩy HS đi đến quyết định lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân; việc nghiên cứu các thành tố của xu hướng chọn nghề cho biết hướng phát triển về nghề nghiệp của HS, từ đó giúp cho HS có kế hoạch đúng đắn và tích cực hoạt động để đạt được mục tiêu, lý tưởng nghề nghiệp của mình trong tương lai. 4.2.2. Phạm vi về địa bàn nghiên cứu Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi nghiên cứu 3 trường trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. 4.2.3. Phạm vi về khách thể nghiên cứu 286 học sinh lớp 12 tại các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Tây Ninh, huyện Dương Minh Châu và huyện Trảng Bàng. Trong đó có: - Xét theo giới tính: 161 nam (56.3%), 125 nữ (43.7%).
  • 15. học lực 57 giỏi (19.9%), 103 khá (36%), 97 trung bình (33.9%), 29 (10.2%) yếu. - Xét theo địa bàn: Thành phố Tây Ninh (Trường THPT Tây Ninh): 97 HS Huyện Trảng Bàng (trường THPT Nguyễn Trãi): 95 HS Huyện Dương Minh Châu (trường THPT Nguyễn Đình Chiểu): 94 HS. 4.3. Giả thuyết khoa học - Hiện nay xu hướng chọn nghề của học sinh trung học phổ thông chưa rõ ràng, do các em chưa được định hướng đầy đủ từ nhà trường, gia đình, xã hội. - Xu hướng chọn nghề của học sinh trung học phổ thông chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố khác nhau: Gia đình, nhà trường, bạn bè và trào lưu xã hội… - Nếu xác định được thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng chọn nghề của học sinh trung học phổ thông hiện nay, trên cơ sở đề xuất một số biện pháp giáo dục hướng nghiệp hợp lý thì sẽ giúp cho các em lựa chọn nghề nghiệp phù hợp. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Nghiên cứu đƣợc tiếp cận dƣới góc độ tâm lý học đại cƣơng và Tâm lý học chuyên ngành là Tâm lý học lứa tuổi. 5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu lý luận - Phương pháp phỏng vấn sâu - Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi - Phương pháp thống kê toán học - Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm phong phú hơn lý luận về xu hướng nói chung và xu hướng chọn nghề của học sinh trung học phổ thông nói
  • 16. những biểu hiện và các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng chọn nghề của học sinh trung học phổ thông. Từ đó, khái quát xu thế của học sinh trong việc lựa chọn ngành nghề của họ. Đồng thời, đưa ra cho học sinh những biện pháp có khả năng hữu ích giúp học sinh định hướng cho bản thân trong việc lựa chọn nghề nghiệp phù hợp. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo hữu ích đối với các cơ sở đào tạo, nghiên cứu, thực hành về định hướng nghề nghiệp cho học sinh nói chung và học sinh trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh Tây Ninh nói riêng. Đồng thời, là bằng chứng khoa học quan trọng trong việc xây dựng chính sách, giải pháp thực hiện có hiệu quả việc định hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học phổ thông tỉnh Tây Ninh. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn có 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về xu hướng chọn nghề của học sinh trung hoc phổ thông tỉnh Tây Ninh Chương 2: Tổ chức nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu Chương 3: Thực trạng xu hướng chọn nghề của học sinh trung học phổ thông tỉnh Tây Ninh
  • 17. LÝ LUẬN 1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Nghề nghiệp 1.1.1.1. Khái niệm chung về nghề nghiệp Để đi sâu vào nghiên cứu xu hướng chọn nghề của học sinh, chúng tôi tìm hiểu một số khái niệm có liên quan. Theo E. A Kimôp: “Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức mạnh vật chất và tinh thần của con người một cách có giới hạn, cần thiết cho xã hội (do sự phân công lao động xã hội mà có). Nó tạo cho mỗi người khả năng sử dụng phương tiện cần thiết cho việc tồn tại và phát triển”. [22] Theo tác giả Nguyễn Văn Hộ: “Nghề nghiệp như là một dạng lao động vừa mang tính xã hội (sự phân công xã hội), vừa mang tính cá nhân (nhu cầu bản thân) trong đó con người với tư cách là chủ thể hoạt động đòi hỏi để thỏa mãn những nhu cầu nhất định của xã hội và cá nhân”. [17] Theo quan điểm giáo dục học, nghề nghiệp là công việc chuyên môn được định hình một cách hệ thống, là dạng đòi hỏi một trình độ học vấn nào đó để thực hiện một hoạt động cơ bản, giúp con người tồn tại và phát triển. [6] Dưới góc độ tâm lý học, nghề nghiệp là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo ra con người có những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được nhu cầu xã hội. [34] Tóm lại, do được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau, khía cạnh khác nhau, dẫn đến có nhiều quan niệm khác nhau về nghề; tuy nhiên, các quan niệm trên đều đưa ra những nhận định chung về nghề nghiệp: Nghề nghiệp là một dạng hoạt động lao động của con người trong xã hội, trong đó con người phải sử dụng năng lực, kỹ năng và phẩm chất để tạo ra sản phẩm vật chất và tinh thần nhằm phục vụ cho bản thân và xã hội.
  • 18. nghề nghiệp Thế giới nghề nghiệp rất phong phú và đa dạng, hiện có tới 70.000 nghề và chuyên môn. Ở nước ta trong danh mục nghề đào tạo công nhân do Viện khoa học dạy nghề xây dựng có khoảng 400 nghề, còn trong xã hội có hàng chục nghìn nghề khác nhau. Theo tác giả Đặng Danh Ánh, tại Việt Nam danh mục nghề đào tạo công nhân do Viện khoa học dạy nghề xây dựng có khoảng 400 nghề, còn nghề xã xã hội có hàng chục nghìn nghề khác nhau. Căn cứ vào mức độ phức tạp kỹ thuật về trình độ chuyên môn, các nghề được chia thành 3 nhóm: 1/ Các nghề không chuyên môn: Lao động đơn giản, không cần qua đào tạo nghề; 2/ Các nghề nửa chuyên môn hóa: Chỉ cần đào tạo các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đủ để thực hiện các thao tác đơn giản hay những thao tác chuyên môn hóa trong dây chuyền sản xuất; 3/ Các nghề chuyên môn hóa: Đòi hỏi đào tạo chính quy, chuyên sâu. [1] Theo nhà tâm lý học Mỹ Ann Roe, có tám lĩnh vực nghề nghiệp, đó là: Những nghề dịch vụ, những người làm kinh doanh, những người làm tổ chức, những người làm công nghệ, những người làm việc ngoài trời, những người làm khoa học, những người làm trong lĩnh vực văn hóa và cuối cũng những người làm trong lĩnh vực giải trí. Đồng thời, Ann Roe cũng đưa ra sáu mức độ nghề nghiệp, đó là: Chuyên nghiệp và quản lý bậc I- những người này có chuyên môn sâu, có khả năng quản lý và quyết định của họ có khả năng ảnh hưởng đến những người khác; chuyên nghiệp và quản lý bậc II- những người này cũng có trình độ chuyên môn, có khả năng quản lý với quy mô nhỏ hơn và quyết định của họ có ảnh hưởng ở phạm vi nhỏ hơn; bán chuyên nghiệp và kinh doanh nhỏ; những người lao động có kỹ năng; những người lao động bán kỹ năng; những người lao động không có kỹ năng [19] Theo E. A. Kilimov, phân loại nghề theo đối tượng lao động được chia thành năm nhóm chính, bao gồm: [22]
  • 19. loại nhóm nghề theo E. A. Klimov Nhóm nghề Đối tượng lao động chủ yếu Nghề nghiệp tương ứng Người- thiên nhiên Các tổ chức hữu cơ, các quá trình sinh vật và vi sinh vật Trồng lúa, chăn nuôi, bác sỹ thú y, lâm nghiệp… Người- kỹ thuật Hệ thống các thiết bị kỹ thuật, đối tượng vật chất… Thợ máy, thợ rèn, thợ nguội, thợ xây, lái xe… Người- người Con người, nhóm tập thể Bác sỹ, y tá, giáo viên, bán hàng… Người- hệ thống ký hiệu Những dấu hiệu, con số, mã số, công thức, ngôn ngữ… Nhân viên kế toán, thủ quỹ, đánh máy, thợ xếp chữ in Người- nghệ thuật Các hình ảnh nghệ thuật, các bộ phận và thuộc tính của nó. Sơn mài, điêu khắc, họa sỹ, nhạc sỹ, thi sỹ… Ngoài ra, có nhiều cách phân loại về nghề dựa vào kiểu nhóm rộng và theo đặc điểm của hoạt động nghề; theo dấu hiệu mức độ phức tạp về kỹ thuật; theo diện chuyên môn nghề và hoạt động của nghề… Như vậy, sự phân loại nghề nghiệp sẽ giúp cho mỗi người có một cái nhìn tổng quát về nghề, nhóm nghề, thấy được những đặc trưng nổi bật của nghề, từ đó so sánh đối chiếu sở thích, năng lực của bản thân có phù hợp với nghề hay không để từ đó có sự lựa chọn nghề cho phù hợp. 1.1.2. Chọn nghề Lựa chọn ngành nghề của mỗi HS là việc làm rất quan trọng. Tuy nhiên, làm thế nào để chọn được cho mình một ngành nghề phù hợp với bản thân lại càng quan trọng hơn, vì đó là yếu tố mang tính quyết định sự thành công của HS trong tương lai. Do đó, quá trình chọn nghề phải bắt đầu từ sự nhìn nhận, đánh giá về nghề rồi và rồi căn cứ vào hứng thú, năng lực của bản thân để tự xác định cho mình một trong số những nghề hiện có trong xã hội.
  • 20. nay, vừa là nỗi lo, vừa là khát vọng, nỗi trăn trở của biết bao con người. Cho nên, việc lựa chọn nghề nghiệp cho phù hợp không chỉ là quyết định quan trọng với cá nhân mà còn có ý nghĩa với toàn xã hội. Khi có nghề nghiệp phù hợp, con người sẽ có động lực để phát huy sức lực, trí lực của bản thân mình cho nghề mà mình đã lựa chọn. Lúc đó nghề nghiệp không còn là nỗi nhọc nhằn mà trở thành niềm vui, niềm hạnh phúc, sự thỏa mãn khi được hoạt động trong nghề nghiệp mà mình đã lựa chọn. Tuy nhiên không phải ai cũng có thể lựa chọn một nghề phù hợp với bản thân mình. Làm thế nào để định hướng đúng nghề phù hợp, đó là vấn đề không đơn giản, đòi hỏi con người phải cương quyết, khéo léo, linh hoạt, cân nhắc đến nhiều vấn đề. Hiện nay với khoảng 1800 ngành nghề đào tạo ở các bậc trung cấp, cao đẳng, đại học và điều kiện xét tuyển khá mở, HS có nhiều cơ hội để lựa chọn ngành nghề phù hợp với bản thân mình. Vì vậy, khi lựa chọn ngành nghề, HS cần phải lưu ý một số vấn đề sau: - Dựa vào năng lực: Năng lực là khả năng bạn có thể theo học và làm được nghề. HS có thể đánh giá năng lực của bản thân qua kết quả học tập trong ba năm học THPT. Ngoài ra cần phải lưu ý về ngành học cần kỹ năng gì và mình có đáp ứng được hay không. Nếu khả năng, năng lực bản thân không đủ để đáp ứng nhu cầu công việc, chắc chắn bạn không thể sống được bằng ngành nghề bạn đã học. - Dựa vào sở thích: Ngành nghề trong xã hội rất đa dạng, phong phú, khi bạn yêu thích, say mê một nghề nào đó thì sẽ có động lực để làm việc, tìm tòi, sáng tạo, phát triển và thành công. Vì vậy, chọn nghề phù hợp với sở thích là một yếu tố quan trọng và hiểu được sở thích nghề nghiệp sẽ giúp bạn chọn được ngành học phù hợp để phát triển nghề nghiệp trong tương lai. - Dựa vào hoàn cảnh gia đình: Ngày nay, chi phí cho việc học nghề không hề nhỏ. Vì thế việc chọn ngành, chọn trường sao cho phù hợp với khả năng tài chính là điều mà học sinh phải quan tâm. Tự nhận biết khả năng và cân nhắc kỹ lưỡng để có
  • 21. hiệu quả sẽ giúp học sinh thêm tự tin và kiên trì theo đuổi nghề nghiệp, biết lượng sức mình và quyết tâm thì cơ hội thành công sẽ đến với bạn. - Dựa vào nhu cầu xã hội: Sau khi ra trường có thể dễ dàng tìm được một công việc phù hợp, cơ hội thăng tiến cao là mơ ước của rất nhiều người. Do đó việc tìm hiểu nhu cầu của xã hội trước khi bắt tay vào học một ngành nào đó là việc cực kỳ quan trọng, điều đó quyết định tương lai của bạn về sau. Một công việc được cho là dễ xin khi xã hội đang cần, nhu cầu tuyển dụng cao hơn nguồn lao động hiện có trên thị trường. Tóm lại chọn nghề là lựa chọn một ngành nghề phù hợp với năng lực, đúng với hoài bão đam mê của bản thân và phù hợp với nhu cầu nhân lực của xã hội. 1.1.3. Xu hướng 1.1.3.1. Khái niệm xu hướng Theo từ điển tiếng Việt “xu hướng là sự thiên hướng về một hướng nào đó trong quá trình hoạt động”. [45] Theo Nguyễn Quang Uẩn, Trần Trọng Thủy: “Xu hướng là một thuộc tính tâm lý điển hình của cá nhân, bao hàm trong đó một hệ thống những động lực quy định tính tích cực hoạt động của cá nhân và quy định sự lựa chọn các thái độ của nó” [42] Theo quan điểm của tâm lý học: Mọi hoạt động của cá nhân trong cộng đồng bao giờ cũng hướng về một mục tiêu nào đó, không có một hoạt động nào không có phương hướng (đồng nghĩa với không có mục tiêu, không có đối tượng). Sự hướng tới này được phản ánh trong tâm lý của mỗi người như là xu hướng của nhân cách. Cá nhân có thể hướng tới một vật phẩm cụ thể, một tri thức khoa học hoặc một tư tưởng chính trị, đồng thời thúc đẩy hoạt động của con người chiếm lĩnh chúng. Xu hướng với tư cách là một hiện tượng tâm lý luôn gắn với hoạt động của con người, nói lên chiều hướng chung của sự phát triển, thúc đẩy và định hướng con người phấn đấu đạt tới một mục tiêu nào đó có ý nghĩa đối với bản thân mình. Sự hướng tới mục tiêu đó diễn ra trong một thời gian và khá ổn định. Đó là xu hướng của cá nhân trong cuộc sống của mỗi người đặt ra cho mình những mục tiêu và viễn cảnh
  • 22. thái độ lựa chọn khác nhau với những giá trị xã hội xung quanh. Xu hướng của mỗi người khác nhau là khác nhau. Như vậy, chúng ta thấy có nhiều cách tiếp cận khác nhau về xu hướng, mỗi quan điểm đưa ra một cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau về xu hướng. Tóm lại, xu hướng là ý định hướng tới đối tượng trong mọt thời gian lâu dài nhằm thỏa mãn nhu cầu hay hứng thú hoặc vươn tới những mục tiêu cao đẹp mà cá nhân lấy làm lẽ sống của mình. Xu hướng thường được biểu hiện ở một số mặt chủ yếu sau: Nhu cầu, hứng thú, lý tưởng, thế giới quan, niềm tin… - Nhu cầu: Là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển. Nhu cầu của con người rất đa dạng: Nhu cầu vật chất gắn liền với sự tồn tại của cơ thể như: nhu cầu ăn, ở, mặc…Nhu cầu tinh thần bao gồm: nhu cầu nhận thức, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu lao động, nhu cầu giao lưu và nhu cầu hoạt động xã hội. - Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động. Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung chú ý cao độ, ở sự say mê hấp dẫn bởi nội dung hoạt động, ở bề rộng, chiều sâu của của sự thích thú. Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả của hoạt động nhận thức, tăng sức làm việc. Vì thế cùng với nhu cầu, hứng thú là một trong hệ thống động lực của nhân cách. - Lý tưởng: Là một mục tiêu cao đẹp, một hình ảnh mẫu mực, tương đối hoàn chỉnh, có sức lôi cuốn con người vươn tới nó. Lý tưởng là biểu hiện tập trung nhất của xu hướng nhân cách, nó có chức năng xác định mục tiêu, chiều hướng phát triển của cá nhân, là động lực thúc đẩy, điều khiển toàn bộ hoạt động của con người, trực tiếp chi phối sự hình thành và phát triển cá nhân. - Thế giới quan: Là hệ thống quan điểm về tự nhiên, xã hội và bản thân, xác định phương châm hành động của con người. Nói một cách cụ thể thì thế giới quan của cá nhân là cách nhìn nhận, đánh giá, nhận xét về thế giới của cá nhân.
  • 23. Là một phẩm chất của thế giới quan, là cái kết tinh các quan điểm, tri thức, rung cảm, ý chí được con người thể nghiệm, trở thành chân lý bền vững trong mỗi cá nhân. Niềm tin tạo cho con người nghị lực, ý chí để hành động phù hợp với quan điểm đã chấp nhận. 1.1.3.2. Xu hướng chọn nghề của học sinh trung học phổ thông Theo cách hiểu đơn giản thì xu hướng nghề là sự định hướng và sự quan tâm hay sự “theo đuổi” của cá nhân đến một nhóm nghề nào đó hay một công việc nào đó trong một nhóm nghề. Dựa vào khái niệm về xu hướng trong Tâm lý học, có thể hiểu xu hướng chọn nghề của học sinh THPT là sự thiên về một nghề nào đó, sự hướng tới việc lựa chọn nghề nhằm thỏa mãn nhu cầu, hứng thú của học sinh, bao gồm toàn bộ những động cơ bền vững, có tác dụng định hướng hoạt động cho học sinh. Xu hướng nghề được biểu hiện qua nhận thức, thái độ và hành động của học sinh đối với nghề nghiệp tương lai. Xu hướng nghề là một bộ phận của xu hướng nhân cách, một biểu hiện xu hướng hoạt động nhằm vào lĩnh vực nhất định. Đối với HS trung học, xu hướng nghề có tác dụng đáng kể trong việc điều chỉnh, thúc đẩy các mặt hoạt động của các em nhằm hướng đến việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai. Nếu như ở cuối bậc trung học cơ sở thì xu hướng nghề bắt đầu manh nha thì càng ở cuối cấp học THPT, nó càng rõ ràng, cụ thể và ổn định. Vì vậy, việc tìm hiểu xu hướng nghề của học sinh THPT là nhiệm vụ rất quan trọng. Nó cho biết hướng phát triển về nghề nghiệp của HS, từ đó giúp các em có những kế hoạch đúng đắn và tích cực hoạt động để đạt được mục tiêu, lý tưởng nghề nghiệp của mình trong tương lai. 1.2. Đặc trƣng tâm lý của học sinh trung học phổ thông 1.2.1. Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ Ở học sinh THPT tính chủ định được phát triển mạnh ở tất cả các quá trình nhận thức. Tri giác có mục đích đã đạt tới mức rất cao. Quan sát trở nên có mục đích, có hệ thống và toàn diện hơn. Quá trình quan sát đã chịu sự điều khiển của hệ thống tín hiệu thứ hai nhiều hơn và không tách khỏi tư duy ngôn ngữ. Tuy vậy,
  • 24. học sinh THPT cũng khó có hiệu quả nếu thiếu sự chỉ đạo của giáo viên. Ở học sinh THPT ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ, đồng thời vai trò của ghi nhớ logic trừu tượng, ghi nhớ có ý nghĩa ngày một tăng. Đặc biệt các em đã tạo được tâm thế phân hóa trong ghi nhớ. Các em biết tài liệu nào cần nhớ từng câu từng chữ, cái gì cần hiểu mà không cần nhớ. Do cấu trúc của não phức tạp và chức năng của não phát triển; do sự phát triển của các quá trình nhận thức nói chung, do ảnh hưởng của hoạt động học tập mà hoạt động tư duy của học sinh THPT có thay đổi quan trọng. Các em có khả năng tư duy lí luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập sáng tạo trong những đối tượng quen biết đã được học ở trường. Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất quán hơn. Đồng thời tính phê phán của tư duy cũng phát triển…Những đặc điểm đó tạo điều kiện cho HS thực hiện các thao tác tư duy toán học phức tạp, phân tích nội dung cơ bản của khái niệm trừu tượng và nắm được mối quan hệ nhân quả trong tự nhiên và trong xã hội. Đó là cơ sở để hình thành thế giới quan. Tuy vậy, hiện nay một số học sinh THPT đạt tới mức tư duy đặc trưng cho lứa tuổi trên còn chưa nhiều. Nhiều khi các em chưa chú ý phát huy hết năng lực độc lập suy nghĩ của bản thân, còn kết luận vội vàng theo cảm tính. Vì vậy, ở lứa tuổi này các em dễ mắc sai lầm trong việc chọn nghề. Việc định hướng và giúp đỡ của giáo viên là hết sức cần thiết trong việc xác định cho mình một nghề nghiệp phù hợp và đúng đắn cho bản thân. 1.2.2. Đặc điểm của hoạt động học tập Nội dung và tính chất của hoạt động học tập của học sinh THPT khác rất nhiều so với hoạt động học tập của HS ở các bậc học khác. Sự khác nhau cơ bản không phải ở chỗ nội dung học tập ngày càng một sâu hơn, mà là ở chỗ hoạt động học tập của học sinh THPT đòi hỏi tính năng động và tính độc lập ở mức độ cao hơn nhiều; đồng thời cũng đòi hỏi, muốn nắm được chương trình một cách sâu sắc thì cần phát triển tư duy lí luận.
  • 25. thành, kinh nghiệm sống ngày càng phong phú, các em càng ý thức được mình đang đứng trước ngưỡng cửa cả cuộc đời. Do vậy, thái độ có ý thức của các em đối với học tập ngày càng phát triển và có tính chọn lựa hơn. Các em đã hình thành được những hứng thú học tập gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp. Cuối bậc THPT các em đã xác định được cho mình một hứng thú ổn định đối với một môn học nào đó, đối với một lĩnh vực tri thức nhất định. Hứng thú này thường liên quan tới việc chọn một nghề nhất định của HS. Hơn nữa, hứng thú nhận thức của học sinh THPT mang tính chất rộng rãi, sâu và bền vững hơn thiếu niên. Thái độ học tập của HS được thúc đẩy bởi động cơ học tập có cấu trúc khác với tuổi trước. Lúc này có ý nghĩa nhất là động cơ thực tiễn, động cơ nhận thức, sau đó là ý nghĩa xã hội của môn học, rồi mới đến động cơ cụ thể khác. Nhưng thái độ học tập ở không ít em có nhược điểm là: Một mặt các em rất tích cực học một số môn mà các em cho là quan trọng đối với nghề mình đã chọn, mặt khác các em lại sao nhãng các môn học khác hoặc chỉ học để đạt được điểm trung bình, dẫn đến hiện tượng học lệch, học tủ, học chỉ vì mục đích thi cử. Thái độ học tập có ý thức đã thúc đẩy sự phát triển tính chủ định của các quá trình nhận thức và năng lực điều khiển bản thân của HS trong hoạt động học tập. 1.2.3. Sự phát triển của tự ý thức Sự phát triển của tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách của thanh niên mới lớn, nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tâm lý của lứa tuổi thanh niên. Sự hình thành tự ý thức ở lứa tuổi học sinh THPT là một quá trình lâu dài, trải qua những mức độ khác nhau. Ở lứa tuổi này quá trình tự ý thức diễn ra mạnh mẽ, sôi nổi và có tính chất đặc thù riêng. Đặc điểm quan trọng trong sự tự nhận thức của HS là sự tự ý thức của họ xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống và hoạt động- địa vị trong tập thể. Các em không chỉ nhận thức cái tôi của mình mà còn nhận thức vị trí của mình trong xã hội, trong tương lai. Học sinh THPT có thể hiểu mình ở những phẩm chất nhân cách bộc rõ (lòng yêu lao động, cần cù, tính cần cù, dũng cảm…) HS còn có thể hiểu rõ
  • 26. phức tạp, biểu hiện những quan hệ nhiều mặt của nhân cách (tinh thần trách nhiệm, lòng tự trọng, tình cảm nghĩa vụ…) Học sinh THPT không chỉ có nhu cầu đánh giá, mà còn có khả năng đánh giá sâu sắc về những phẩm chất, mặt yếu của những người cùng sống và của chính mình. Nhưng nhận thức người khác bao giờ cũng đỡ khó khăn hơn là nhận thức bản thân. Thanh niên mới lớn thường dễ có xu hướng cường điệu trong khi tự đánh giá. Hoặc là các em đánh giá thấp cái tích cực, tập trung phê phán cái tiêu cực; hoặc là đánh giá cao nhân cách của mình- tỏ ra tự cao, coi thường người khác. 1.2.4. Sự hình thành thế giới quan Tuổi thanh niên mới lớn là lứa tuổi quyết định của sự hình thành thế giới quan. Ở tuổi này, những điều kiện về mặt trí tuệ và xã hội xây dựng một hệ thống quan điểm riêng được hình thành. Những cơ sở của thế giới quan đã được hình thành ngay từ khi còn nhỏ. Suốt thời gian học tập ở phổ thông đã được lĩnh hội những tâm thế, thói quen đạo đức nhất định, thấy được cái đẹp, cái xấu, cái thiện, cái ác…Dần dần những điều đó được ý thức và được quy định vào các hình thức, các tiêu chuẩn, nguyên tắc hành vi xác định... Đến giai đoạn này, khi nhân cách đã được phát triển tương đối cao thì các em mới xuất hiện những nhu cầu đưa những tiêu chuẩn, hành vi đó vào một hệ thống hoàn chỉnh. Một khi đã có hệ thống quan điểm riêng thì thanh niên không chỉ hiểu về thế giới khách quan mà còn đánh giá được nó, xác định được thái độ của mình đối với thế giới nữa. Chính nội dung các môn học ở THPT giúp cho các em xây dựng được thế giới quan tích cực. Việc hình thành thế giới quan không chỉ giới hạn ở tính tích cực nhận thức mà còn thể hiện ở phạm vi nội dung nữa. Học sinh THPT quan tâm nhiều nhất đến các vấn đề liên quan đến con người, vai trò của con người trong lịch sử, quan hệ giữa con người với lịch sử, giữa quyền lợi và nghĩa vụ, nghĩa vụ và tình cảm. Vấn đề ý nghĩa cuộc sống chiếm vị trí trung tâm trong suy nghĩ của thanh niên mới lớn. Tuy vậy, một bộ phận thanh niên chưa được giáo dục đầy đủ về thế giới quan. Họ có những quan niệm lệch lạc về lối sống do ảnh hưởng từ mặt trái của cơ chế thị trường, thích sống cuộc sống hưởng thụ mà không lo học hành. Chính điều này đã
  • 27. nhận thức cũng như cuộc sống của mỗi cá nhân, tác động đến sự lựa chọn của mỗi cá nhân. 1.2.5. Đời sống tình cảm Đời sống tình cảm của học sinh THPT rất phong phú và nhiều vẻ. Đặc điểm đó được thể hiện rõ nhất trong tình bạn của các em. Ở lứa tuổi này, nhu cầu về tình bạn tâm tình cá nhân được tăng lên rõ rệt. Các em có yêu cầu cao đối với tình bạn (yêu cầu sự chân thật, lòng vị tha, tin tưởng, tôn trọng nhau và sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau, hiểu biết lẫn nhau). Trong quan hệ với bạn bè, các em không chỉ có xúc cảm chân thành, mà còn phải có khả năng đáp ứng lại xúc cảm của người khác. Tình bạn của học sinh THPT rất bền vững. Nó có thể vượt qua mọi khó khăn thử thách và kéo dài suốt cuộc đời. Quan hệ tình bạn khác giới được tích cực hóa một cách rõ rệt, phạm vi quan hệ bạn bè được mở rộng. Bên cạnh nhóm thuần nhất, xuất hiện nhiều nhóm pha trộn cả nam và nữ). Ở một số em đã xuất hiện những cảm xúc khác giới, nhu cầu chân chính về tình yêu. Đó là một trạng thái mới mẻ nhưng rất tự nhiên trong đời sống của thanh niên. 1.2.6. Hoạt động lao động và sự lựa chọn nghề nghiệp Hoạt động lao động tập thể có vai trò to lớn trong sự hình thành nhân cách của học sinh THPT. Hoạt động lao động được tổ chức đúng đắn sẽ giúp các em hình thành tinh thần tập thể, lòng yêu lao động, tôn trọng lao động, người lao động và thành quả lao động, đặc biệt là có được nhu cầu và nguyện vọng lao động. Đối với học sinh THPT việc lựa chọn nghề nghiệp đã trở thành công việc khẩn thiết của các em. Càng cuối cấp thì sự lựa chọn càng nổi bật. Các em hiểu rằng cuộc sống tương lai phụ thuộc vào chỗ, mình có biết lựa chọn nghề nghiệp một cách đúng đắn hay không. Ở nhiều em biết so sánh đặc điểm riêng về thể chất, tâm lý, khả năng của mình với yêu cầu nghề nghiệp, dù sự hiểu biết của các em về nghề nghiệp là chưa đầy đủ. Lựa chọn nghề là một quá trình tìm hiểu, đối chiếu giữa những đặc điểm về thể chất, tâm lý của cá nhân với những yêu cầu của hoạt động lao động, dựa trên cơ sở hình dung trước hoạt động lao động hiện tại và tương lai. Lựa chọn nghề nghiệp
  • 28. thực hiện trên cơ sở các mối quan hệ xã hội- nghề nghiệp- cá nhân. Đôi khi HS lựa chọn nghề nhưng không dựa trên nhu cầu về sự phân công lao động. Quá trình lựa chọn nghề nghiệp đồng thời là quá trình lựa chọn những khả năng thực hiện được. Quá trình này luôn luôn bắt đầu từ sự ý thức nghề nghiệp. Đa số HS khi quyết định lựa chọn nghề nghiệp những kiến thức mà các em tiếp thu được trong quá trình học tập chưa có ý nghĩa lớn, kể cả những kiến thức về yêu cầu của nghề nghiệp. Do vậy trong quá trình lựa chọn nghề, HS cần phải hiểu cụ thể về những nghề trong xã hội và địa phương, những đặc điểm cơ bản về nghề mà các em dự định lựa chọn, những đòi hỏi của nghề, kế hoạch kinh tế đối với sự phát triển xã hội. 1.3. Biểu hiện xu hƣớng chọn nghề của học sinh trung học phổ thông Nghề nghiệp là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi cá nhân. Lựa chọn nghề nghiệp chính là xác định cho mình lĩnh vực lao động phù hợp với năng lực và sở thích của bản thân để tạo nên những thành công trong lĩnh vực nghề nghiệp của mình. Xu hướng chọn nghề được biểu hiện ở nhiều mặt: Mức độ nhận thức nghề, nhu cầu, nguyện vọng, hứng thú, lý tưởng của cá nhân đối với nghề, dự định của cá nhân trong việc lựa chọn nghề nghiệp… Trong phạm vi đề tài này, xu hướng chọn nghề của HS, chúng tôi chủ yếu nói đến mặt nhận thức nghề, thái độ đối với nghề và hành động nhằm chuẩn bị nghề nghiệp tương lai của HS. 1.3.1. Nhận thức nghề của học sinh trung học phổ thông Nhận thức nghề (hay sự hiểu biết về nghề) là quá trình phản ánh các thuộc tính cơ bản của nghề, những yêu cầu cơ bản của xã hội đối với yêu cầu nghề nghiệp, những đòi hỏi về mặt tâm, sinh lý đối với người làm nghề đó, phản ánh quá trình lao động trong lĩnh vực nghề nghiệp nhất định. Nhận thức về nghề được hình thành trong quá trình chọn nghề của học sinh THPT và ngày càng sâu sắc trong quá trình đào tạo nghề. Nhận thức nghề là một trong những thành phần cơ bản của xu hướng nghề nghiệp. Đó là: Nhận thức nghề, thái độ chọn nghề và hành động chọn nghề. Cả ba
  • 29. tác động với nhau tạo nên kết quả chọn nghề là về nghề này mà không phải nghề khác. Xuất phát từ nhận thức nghề, có những tri thức về nghề, về những đòi hỏi khách quan của nghề đối với người làm nghề đó để đối chiếu với những phẩm chất tâm lý cá nhân, tìm ra sự phù hợp là một quá trình khó khăn phức tạp; không phải người học nào cũng có sự hiểu biết đầy đủ về nghề để có những định hướng phù hợp cho hoạt động nghề của mình sau này. Nhận thức nghề được biểu hiện như sau: - Nhận thức về đối tượng lao động của nghề Đối tượng lao động là hệ thống những thuộc tính, mối quan hệ qua lại giữa các sự vật, hiện tượng, các quá trình mà ở cương vị lao động nhất định con người vận dụng chúng. Theo E. A.Klimop có năm nhóm nghề cụ thể, bao gồm: Nghề tiếp xúc với con người, nghề tiếp xúc với thiên nhiên, nghề tiếp xúc với kỹ thuật, nghề tiếp xúc với nghệ thuật, nghề tiếp xúc với dấu hiệu. Và theo đó, nhóm đối tượng lao động của nghề nghiệp là: Con người, thiên nhiên, kỹ thuật, nghệ thuật và dấu hiệu. Mỗi một ngành nghề đều hướng đến một nhóm đối tượng nhất định, nhằm tác động đến đối tượng đó. Việc nhận thức về đối tượng lao động của nghề nghiệp tức là HS phải biết rõ về nghề mình sẽ chọn và nghề nghiệp tương ứng trong tương lai hướng tới nhóm đối tượng nào và trong đó các đối tượng cụ thể ra sao, đồng thời họ phải có cách hiểu căn bản, đúng đắn và sâu sắc về các nhóm đối tượng đó. - Nhận thức về đặc điểm, nội dung và phương thức thực hiện nghề Mỗi nghề trong xã hội đều có đặc điểm riêng, người lao động trước khi chọn nghề phải hiểu xem nghề mình định chọn có đặc điểm gì; nếu cá nhân hiểu rõ về nghề, sẽ thuận lợi trong việc học tập và thích nghi với nghề. Từ thực tiễn cho thấy, hiện nay có nhiều kênh thông tin giúp cho HS nhận thức về đặc điểm các ngành nghề trong xã hội. Đó có thể là phương tiện truyền thông, nhà trường, cha mẹ, nhân viên tư vấn hay là chính quá trình quan sát thực tiễn của các em. Các nguồn thông tin về nghề trong xã hội tương đối đa dạng và phong phú. - Nhận thức về thế giới nghề và những yêu cầu đặc trưng của nghề đối với người chọn nghề
  • 30. với sự phát triển của khoa học kỹ thuật công nghệ nhiều ngành nghề mới ra đời tạo nên sự phong phú đa dạng trong thế giới nghề, đồng thời đòi hỏi những người hành nghề phải có một trình độ chuyên môn, năng lực vững vàng để hoạt động nghề đạt hiệu quả cao. Nhu cầu thị trường tuyển dụng hiện nay rất lớn, nhưng thực tế họ sẽ chọn những người phù hợp với công việc của họ và đối tượng lao động họ hướng đến. Điều kiện ở đây chính là kiến thức, kỹ năng và thái độ từ người ứng tuyển. Nhu cầu tuyển dụng lao động ở Việt Nam hiện nay rất lớn nhưng tại sao sinh viên ra trường lại thất nghiệp rất nhiều, vì các nhà tuyển dụng không nhìn thấy ở sinh viên những yếu tố mà họ cần. Nghĩa là sinh viên không đáp ứng được yêu cầu về nghề nghiệp. Hoặc là có một số sinh viên sau một quá trình đào tạo lại làm trái ngành, mất thời gian nữa để đào tạo lại. Vì vậy, việc nhận thức về yêu cầu của nghề là một bước đệm quan trọng trong quá trình làm nghề của HS sau này. - Nhận thức về nhu cầu xã hội đối với nghề Trước khi lựa chọn một lĩnh vực nghề nghiệp nào đó, con người phải tìm hiểu xem hiện nay xã hội đang có nhu cầu lớn đối với nguồn nhân lực trong lĩnh vực nào, những ngành nghề nào đã bão hòa, dư thừa. Đây là một yếu tố khách quan nhưng không kém phần quan trọng chi phối đến quyết định chọn nghề và hiệu quả trong hoạt động nghề nghiệp của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, nhu cầu xã hội đối với một nghề nào đó chỉ có tính nhất thời chứ không phải là mãi mãi, thị trường lao động luôn luôn có sự biến đổi. Có thể hiện nay nghề đó xã hội đang có nhu cầu cao nhưng đến bốn hoặc năm năm nữa lại dư thừa vì các trường đào tạo ra quá nhiều. Vì vậy, các chuyên gia tư vấn khuyên HS lớp 12 khi lựa chọn một nghề nghiệp nào đó phải xem xét nhu cầu xã hội và xu hướng biến động của nó. Xã hội đang cần nhân lực nghề gì? Bản thân mình học nghề gì ra thì không lo thất nghiệp? Lựa chọn học nghề nào để vừa thỏa mãn đam mê vừa đáp ứng được nhu cầu của xã hội? Có cân bằng được giữa sở thích và nhu cầu xã hội thì mới đảm
  • 31. bạn một tương lai thật sự bền vững, đủ khả năng nuôi sống bản thân và gia đình. - Nhận thức về nghề phù hợp với bản thân Khi quyết định chọn cho mình một công việc phù hợp với tương lai, đây là một quyết định ảnh hưởng lớn đến tương lai của HS sau này. Việc chọn nghề phù hợp với bản thân thực sự rất quan trọng và vô cùng cần thiết. Chọn sai lầm khi đi về hướng không đúng có thể ảnh hưởng cuộc sống sau này. Vậy làm thế nào để chọn được nghề phù hợp với bản thân? Đó là nỗi trăn trở của rất nhiều HS khi mà các em đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời. Trong việc chọn nghề, mỗi cá nhân cần nhận thức được nghề phù hợp với bản thân mình. Một nghề được coi là phù hợp với nghề nào đó nếu họ có những phẩm chất, năng lực, đặc điểm tâm lý, sinh lý đáp ứng với những yêu cầu cụ thể của nghề đó đòi hỏi ở người lao động. Trong quá trình tìm hiểu về nghề phù hợp với bản thân, HS phải tìm ra sự phù hợp giữa các đặc điểm của bản thân với những đòi hỏi của nghề và yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội của địa phương và đất nước. Đây là sự phù hợp hoàn toàn, tuyệt đối, và lí tưởng nhất. Trong thực tế sự phù hợp với các yêu cầu và điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của đất nước lại là quan trọng hàng đầu bởi vì nó quyết định đầu ra, đến việc có hay không có việc làm đối với nghề mình đã chọn. Cần phải thấy rõ sự phù hợp nghề có tính chất tương đối ở các mức khác nhau: Mức độ cao, mức độ bình thường và hoàn toàn không phù hợp. Trên thực tế, ít có ai sinh ra mà phù hợp với nghề này hay nghề khác mà thường chỉ có những cơ sở ban đầu có khả năng phù hợp hay không phù hợp với nghề nghiệp. Vì vậy, để có sự phù hợp tuyệt đối với nghề và để đạt tới mức độ này, bản thân mỗi người phải có sự rèn luyện để hình thành cho mình những gì mà nghề nghiệp đòi hỏi.
  • 32. thể nói sự phù hợp nghề trước hết là sự nhận thức sâu sắc với nghề mình chọn để biết mình, biết nghề và sau đó là quá trình tự rèn luyện để tạo ra sự phù hợp nghề là cơ sở để đảm bảo cho hoạt động nghề đạt tới hiệu quả. Đối với HS khi các em đang ngồi trên ghế nhà trường, các em chưa hiểu hết về các ngành nghề trong xã hội, vì vậy đối với các em nghề nào cũng có thể làm được và nghề nào cũng có thể phù hợp với bản thân mình. Tuy nhiên mỗi nghề sẽ đòi hỏi những yêu cầu riêng về năng lực và phẩm chất mà người lao động hoạt động trong nghề đó phải có. Vì vậy, trong quá trình định hướng và lựa chọn nghề nghiệp HS phải nhận thức sâu sắc về bản thân mình, về nghề mình chọn. 1.3.2. Thái độ đối với nghề của học sinh trung học phổ thông Thái độ đối với nghề nghiệp là trạng thái tâm lý của chủ thể trước một nghề nào đó, cá nhân hình thành những xúc cảm về nghề, thấy được cái hay, cái đẹp, cái hấp dẫn, ý nghĩa của nghề, từ đó giúp cá nhân quyết định chọn nghề này mà không phải nghề khác. Thái độ của cá nhân được thể hiện rõ nét ở nguyện vọng, hứng thú, động cơ chọn nghề. - Nguyện vọng nghề Nguyện vọng nghề nghiệp là điều mong ước, hướng tới của cá nhân đối với nghề nghiệp, nó thôi thúc con người tích cực hoạt động nhằm thực hiện hóa nguyện vọng nghề nghiệp. Cá nhân khi có nhu cầu hướng tới một nghề nghiệp nào đó sẽ có nguyện vọng mong muốn được hoạt động trong nghề, gặt hái được những thành công trong nghề mình đã chọn. Nguyện vọng nghề được hình thành từ sự nhận thức, hiểu biết sâu sắc về nghề, cá nhân thấy được vai trò, ý nghĩa xã hội của nghề bị lôi cuốn hấp dẫn bởi cái hay, cái đẹp của nghề. Vì vậy, cá nhân nỗ lực phấn đấu, học tập, rèn luyện để thỏa mãn mong muốn, nguyện vọng của bản thân đối với nghề nghiệp. Nguyện vọng nghề nghiệp chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi động cơ chọn nghề của cá nhân. Động cơ chọn nghề mang tính xã hội càng cao thì nguyện vọng vươn tới nghề càng ổn
  • 33. vững, nguyện vọng càng tha thiết thì sẽ chuyển thành động cơ thúc đẩy con người hành động để đạt được nguyện vọng như mong muốn. - Hứng thú nghề Hứng thú nghề nghiệp là sự biểu hiện thái độ của con người đối với lĩnh vực nghề nghiệp hay một nghề cụ thể, nó góp phần tạo nên động cơ thúc đẩy cá nhân tìm hiểu kỹ lưỡng về nghề làm cơ sở cho việc thực hiện nguyện vọng nghề nghiệp. Hứng thú của con người luôn gắn liền với những cảm xúc, tình cảm tích cực giúp cá nhân say mê đối với công việc, là động lực thúc đẩy con người khắc phục khó khăn, trở ngại, hoàn thành mục tiêu. Sự thành công của con người trong nghề phụ thuộc rất nhiều vào hứng thú của con người đối với công việc, bởi hứng thú thường tác động đến việc con người xác định mục tiêu và sự nỗ lực trong hoạt động nghề nghiệp. Hứng thú nghề nghiệp của cá nhân được biểu hiện ở các mức độ như sau: + Thích: Tìm hiểu nghề nhưng còn hời hợt. + Thích thú: Muốn tìm hiểu nghề với thái độ quan tâm yêu mến. + Say mê: Muốn tìm hiểu, quyết định chọn nghề, mong muốn được học và hành nghề với cả sự say mê. + Đam mê: Ước muốn, khao khát bằng mọi cách phải học và hành nghề, khao khát sáng tạo và khám phá trong nghề. Đối với học sinh THPT, đặc biệt là ở lớp 12, việc xem xét mối quan hệ giữa hứng thú học tập và hứng thú nghề nghiệp là rất quan trọng. Thông thường trong quá trình học tập ở nhà trường, HS thể hiện hứng thú qua môn học; khi yêu thích một môn học nào đó, hoặc là có sở trường về môn học đó, HS sẽ có sự say mê, hứng thú đối với môn học. Dần dần, hứng thú ổn định sẽ trở thành năng khiếu chuyên biệt của môn học. Vì vậy, khi chọn nghề HS thường chọn những nghề có liên quan đến hứng thú của môn học mà mình cảm thấy có hứng thú. Thông qua quá trình học tập ở phổ thông, nếu HS không cảm thấy hứng thú với môn học nào thì các em khó có thể hình thành nên hứng thú nghề nghiệp. Vì
  • 34. và xã hội phải giúp cho HS nhận thức được vốn hiểu biết của bản thân về nghề nghiệp các em yêu thích, để từ đó phát triển hứng thú đến mức cao nhất, tích cực chuẩn bị nghề nghiệp cho tương lai, từ đó tự tin bước vào hoạt động chọn nghề. - Động cơ chọn nghề Động cơ chọn nghề là những yếu tố kích thích, nguyên nhân thúc đẩy cá nhân ra quyết định chọn nghề nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Việc chọn nghề của HS có thể bị chi phối bởi động cơ bên trong và động cơ bên ngoài. Trong đó, động cơ bên trong đóng vai trò quyết định, thúc đẩy con người hoạt động để vươn đến mục tiêu nhằm thỏa mãn những nhu cầu bên trong của cá nhân tạo nên tâm lý sẵn sàng đối với hoạt động nghề nghiệp. Những động cơ bên trong chi phối đến việc chọn nghề của HS như có năng lực, sở trường, kiến thức khoa học kỹ thuật về nghề. Vì vậy, các em thường chọn nghề một cách thụ động. Những động cơ bên ngoài phải kể đến như chọn nghề theo ý bố mẹ, chọn nghề để dễ xin việc, chọn nghề thu nhập cao… Động cơ bên ngoài góp phần thúc đẩy hoạt động của con người. Chọn nghề là hoạt động bắt buộc của học sinh THPT, vì vậy động cơ chọn nghề của các em được hình thành như một hệ quả tất yếu. Theo quy luật tâm lý, động cơ chọn nghề được hình thành từ khi cá nhân có nhu cầu trong lĩnh vực nghề nghiệp và gặp đối tượng có thể thỏa mãn nhu cầu của mình thì nảy sinh động cơ thúc đẩy chủ thể ra quyết định chọn nghề cho bản thân. Động cơ chọn nghề của HS được thể hiện qua: Nhận thức, thái độ và hành vi của bản thân. Đứng trước ngưỡng cửa của việc phải chọn nghề, HS lớp 12 có nhiều suy nghĩ khác nhau, trong đó có nhiều suy nghĩ không đúng đắn. Nhiều em có suy nghĩ bằng mọi giá phải đậu được đại học mà quên đi yếu tố năng lực của bản thân để rồi nhận kết quả không tốt thì đau khổ, buồn bã. Theo quan điểm của các bậc phụ huynh, đậu đại học là niềm vinh dự lớn cho tộc họ, gia đình và cá nhân nên các bậc phụ huynh cho con vào được đại học bằng mọi giá. Trong khi đó các em vẫn có thể học ở các bậc học thấp hơn như cao đẳng, trung cấp hay học các nghề phổ thông.
  • 35. nhận thức đúng năng lực, hứng thú cá nhân đối với nghề, nhu cầu xã hội đối với nghề và sự phù hợp của cá nhân đối với nghề thì các em sẽ có thái độ và hành vi đúng đắn khi chọn nghề. Vì vậy, chọn nghề ảnh hưởng rất lớn đến tương lai của các em. 1.3.3. Hành động chọn nghề của học sinh trung học phổ thông Đối với hoạt động nghề nghiệp, hành động chọn nghề của HS đóng một vai trò rất quan trọng. Hành động chọn nghề giúp cho HS gia nhập vào môi trường học nghề, làm quen với nghề, giúp cho các em có những sự chuẩn bị về tâm lý, sinh lý, thậm chí cả việc chuẩn bị điều kiện để học nghề. Hành động chọn nghề ở mỗi HS có sự khác nhau. Có HS thì tích cực học tập để thi đỗ vào trường đã chọn, có những HS thì chuẩn bị những phẩm chất tâm lý cần thiết để hành nghề. Mặt hành động của xu hướng chọn nghề của học sinh THPT thể hiện ở các hành động cụ thể như: - Lựa chọn nghề Nghề nghiệp là một vấn đề rất quan trọng đối với mỗi con người khi đến tuổi trưởng thành, bởi nghề nghiệp không chỉ mang lại cho con người chúng ta của cải vật chất mà còn mang lại cho chúng ta một chỗ dựa vững chắc trong xã hội. học sinh THPT sau khi tốt nghiệp ra trường rất băn khoăn về việc lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân mình, có những em muốn học lên con đường đại học, học chuyên ngành mình yêu thích rồi mới đi làm; có những HS lại muốn đi học một nghề nào đó để nhanh có việc làm…. Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển, đất nước đang phát triển theo hướng mở cửa hội nhập thì việc lựa chọn cho mình một nghề nghiệp là vô cùng đúng đắn và quan trọng. Vì vậy, để đảm bảo tương lai học sinh THPT phải có những sự lựa chọn nghề nghiệp đúng đắn. Quá trình chọn nghề của HS diễn ra dưới tác động của nhiều yếu tố như gia đình, nhà trường, xã hội, bạn bè… Những mối quan hệ này tác động rất lớn đến nhận thức, hứng thú, động cơ của HS. Tuy nhiên quyết định chính vẫn là chính bản thân các em.
  • 36. để chọn nghề đúng, nhất là trong bối cảnh thế giới nghề nghiệp rộng lớn và biến đổi không ngừng, đa dạng và phức tạp đặt ra nhiều thách thức đối với thế hệ trẻ khi chọn nghề. Trong khi đó, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế đòi hỏi người lao động có trình độ cao, ở bất kỳ nơi nào cũng cần người thợ phải có kiến thức phổ thông, kỹ thuật cơ sở, kỹ thuật chuyên môn vững vàng và tay nghề cao. Vì vậy, học sinh THPT khi lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân mình, các em phải xem xét giữa sở thích, sở trường của bản thân đối với nghề với tình hình thị trường lao động, nhu cầu nhân lực phục vụ phát triển kinh tế địa phương và nhu cầu thị trường lao động trong nước. - Những sự chuẩn bị nghề của học sinh THPT Tìm hiểu những thông tin về các nghề có trong xã hội. Đó là việc tìm hiểu các nghề tồn tại trong xã hội nói chung và tỉnh Tây Ninh nói riêng và những yêu cầu của ngành nghề này đòi hỏi người lao động cần đáp ứng. Việc tìm hiểu thông tin về các nghề có trong xã hội và của tỉnh nhà nói riêng sẽ giúp cho HS có thể hiểu rõ từng nghề về những yêu cầu của từng loại nghề, để từ đó giúp các em nhận thức sâu sắc những nghề nào phù hợp với bản thân để có quyết định lưạ chọn cho phù hợp. Việc tìm hiểu có thể bắt nguồn từ nhiều thông tin khác nhau như thông qua sách báo, thầy cô, bạn bè, cha mẹ. Tích cực quan sát hoặc đi tham quan cơ sở sản xuất, trao đổi ý kiến những người đang làm nghề, thành công trong nghề để học tập hoặc tập trung học các môn học có liên quan trực tiếp đến nghề mình có ý định lựa chọn, lên kế hoạch thực hiện nghề mình có ý định hướng tới. Ngoài ra chọn nghề còn là quá trình so sánh khả năng, hứng thú, sở thích của bản thân với nghề để đưa ra quyết định chọn nghề phù hợp nhất… Không ngừng rèn luyện những phẩm chất đạo đức cần thiết để thực hành nghề. Tất cả những nghề trong xã hội đều đòi hỏi những người làm trong nghề đó phải có những phẩm chất đạo đức nhất định. Vì vậy khi lựa chọn một nghề nào đó
  • 37. phải rèn luyện để có được những phẩm chất đạo đức đó để có thể đáp ứng được những yêu cầu của nghề nghiệp mình đã chọn. Như vậy, hành động chọn nghề của học sinh THPT rất đa dạng và phong phú, chịu sự tác động chi phối của nhiêu yếu tố chủ quan và khách quan, cũng như được thúc đẩy bởi rất nhiều lí do khác nhau. HS càng có nhiều hành động tích cực hướng tới việc lựa chọn nghề thì các em sẽ có nhận thức và hứng thú nhất định đối với nghề đã chọn. Ngược lại bằng chính những hành động cụ thể khi chọn nghề các em đã thể hiện sự hiểu biết và hứng thú của mình, tìm cho mình một hướng đi thích hợp nhất, đồng thời lựa chọn cho mình một nghề phù hợp với năng lực, hứng thú của bản thân, phù hợp với yêu cầu phát triển của địa phương vã xã hội. 1.4. Các yếu tố ảnh hƣởng đến xu hƣớng chọn nghề của Học sinh trung học phổ thông 1.4.1. Yếu tố xã hội Xu hướng phát triển kinh tế- xã hội của địa phương, đất nước có ảnh hưởng không nhỏ đến xu hướng chọn nghề của học sinh THPT hiện nay. Học sinh THPT ngày càng quan tâm hơn đến sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương, của đất nước và thường có xu hướng lựa chọn những ngành nghề đang có sức nóng với nhiều cơ hội công việc và sự hứa hẹn cao về lương thưởng. Trước đây, những ngành nghề được xã hội đề cao như sư phạm, nông, lâm nghiệp, y, dược…thì hiện nay tỉ lệ đó đã giảm đi rất nhiều, thay vào đó là các ngành như kinh tế, ngoại thương, ngân hàng, quản trị kinh doanh… Trong quá trình học tập ở trường phổ thông, những tác động từ các phương tiện thông tin đại chúng như sách, báo, phim ảnh… đặc biệt là nguồn thông tin vô tận trên mạng internet các em dễ dàng nắm bắt thông tin về mọi mặt trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những nguồn thông tin đó là những tài liệu cung cấp cho các em về các nghề trong xã hội, các yêu cầu của nghề để từ đó giúp cho các em trong việc định hướng nghề nghiệp và có sự chọn nghề đúng đắn trong tương lai của mình.
  • 38. các tổ chức công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội đồng giáo dục các cấp, các cơ quan văn hóa thông tin thường xuyên tổ chức các hoạt động tuyên truyền nghề nghiệp nhằm giúp cho HS có ý thức đúng đắn về việc hướng nghiệp. 1.4.2. Yếu tố nhà trường Khi nói về ảnh hưởng của nhà trường đến xu hướng chọn nghề của học sinh THPT là muốn nói đến ảnh hưởng của công tác hướng nghiệp đến xu hướng chọn nghề của HS. Làm tốt chương trình hướng nghiệp không chỉ giúp nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện mà còn góp phần quan trọng trong việc phân luồng học sinh và phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển kinh tế- xã hội của địa phương và của đất nước. Từ trước đến nay công tác giáo dục hướng nghiệp cho HS luôn được cả xã hội quan tâm. Trong đó chính phủ đã cụ thể hóa bằng các văn bản hành chính như: Quyết định 126/CP về “Công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông và việc sử dụng hợp lý HS trung học cơ sở, THPT tốt nghiệp ra trường”. Hướng nghiệp trong giáo dục là các biện pháp được tiến hành trong và ngoài nhà trường để giúp cho HS có kiến thức, khả năng lựa chọn nghề nghiệp trên cơ sở kết hợp nguyện vọng, sở trường của cá nhân và nhu cầu sử dụng lao động của xã hội. Trong nhà trường, giáo dục hướng nghiệp là một trong những hình thức hoạt động học tập của HS. Thông qua hoạt động này, mỗi HS phải lĩnh hội được những thông tin về nghề nghiệp trong xã hội, nắm được hệ thống yêu cầu của từng nghề cụ thể mà mình muốn chọn, phải có kỹ năng tự đối chiếu những năng lực, phẩm chất và những đặc điểm tâm sinh lý của mình với hệ thống yêu cầu của nghề đang đặt ra cho người lao động. Thông qua việc tổ chức giáo dục hướng nghiệp, nhà trường sẽ giúp cho HS lựa chọn nghề nghiệp một cách phù hợp với nhu cầu, hứng thú, năng lực, đặc điểm tâm- sinh lý của mỗi cá nhân HS.
  • 39. nhà trường được tổ chức thông qua nhiều hình thức hoạt động khác nhau như tổ chức cho HS tham gia các hoạt động lao động sản xuất trong các cơ sở sản xuất: Nông nghiệp, thương nghiệp, thợ thủ công… Thông qua hoạt động lao động sản xuất, khi được trực tiếp tham gia vào các lĩnh vực HS sẽ hiểu rõ được tính chất, đặc thù của công việc mà mình đang làm; từ đó sẽ giúp cho các em có sự lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với bản thân mình. Trong nhà trường, bên cạnh những giờ học giáo dục hướng nghiệp trên lớp học thì HS còn được tham gia vào các hoạt động giáo dục hướng nghiệp bên ngoài lớp học như thông qua qua các buổi sinh hoạt hướng nghiệp do nhà trường tổ chức; các cuộc thi về giáo dục hướng nghiệp để HS mở rộng hiểu biết về nghề nghiệp, thử sức mình thông qua nhiều hoạt động phong phú, đa dạng. Thông qua sinh hoạt hướng nghiệp: Sinh hoạt hướng nghiệp là một hình thức hoạt động hướng nghiệp cho HS thông qua việc giới thiệu cho HS về những ngành nghề đang phát triển, những nơi HS sẽ đến học nghề hoặc làm việc. Thông qua các buổi sinh hoạt hướng nghiệp sẽ giúp cho HS hiểu rõ các ngành nghề đang phát triển ttrong xã hội, từ đó HS sẽ hình thành được năng lực chọn nghề và định hướng nghề nghiệp trong tương lai. 1.4.3. Yếu tố gia đình Việc định hướng nghề nghiệp cho HS cần có sự quan tâm của nhà trường, gia đình và xã hội, trong đó vai trò của gia đình trong hoạt động hướng nghiệp cho học sinh THPT là đặc biệt quan trọng. Cha mẹ với tư cách là nhà giáo dục đầu tiên khởi nguồn cho sự phát triển nhân cách, cũng như định hướng nghề nghiệp của trẻ phù hợp với yêu cầu của thời đại. Trong gia đình, cha mẹ là người luôn gần gũi, hiểu rõ các em nhất nên cha mẹ có thể hiểu được năng lực, hứng thú, sở thích của các em ra sao. Đồng thời cha mẹ là những thế hệ đi trước có nhiều kinh nghiệm thực tế, có sự hiểu biết về các ngành nghề trong xã hội. Vì vậy, HS có sự ảnh hưởng và tin tưởng rất lớn từ cha mẹ trong việc lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân.
  • 40. bạn bè Bạn bè cùng lớp, cùng trường là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh THPT. Trên thực tế chúng ta thấy có nhiều HS chọn nghề do lời khuyên từ bạn bè, thấy bạn mình chọn ngành nghề đó mình cũng chọn theo hoặc các em chơi thân với nhau rồi cùng nhau lựa chọn một nghề, thi chung một trường. Hầu hết tất cả các cách chọn nghề do ảnh hưởng từ bạn bè đều không mang lại hiệu quả, bởi đó là sự lựa chọn mang tính chất cảm tính và không có sự đối chiếu, so sánh giữa năng lực, sở thích, điều kiện của bản thân với yêu cầu của nghề, hoặc do sự hào nhoáng bề ngoài của nghề, thích chạy theo số đông. Có thể nói bạn bè ảnh hưởng đến cuộc sống của học sinh THPT không ít nhưng tương lai thì phải do chính bản thân các em quyết định. Nếu cùng sở thích, chí hướng thì khi đi cùng con đường bạn sẽ có người để chia sẻ, cùng nhau tiến bộ, nhưng khi thấy không thể đi cùng con đường thì các em nên mạnh dạn nói lên suy nghĩ của mình, đừng gò ép theo bạn bè. Bạn bè nên góp ý những ý kiến có thể quan trọng khi các em còn đang phân vân hay đang chọn hướng sai trong việc chọn ngành nghề nào cho phù hợp. Và ở đây chỉ nên mang tính chất là lời khuyên còn quyết định vẫn là chính bản thân mình. 1.4.5. Yếu tố bản thân học sinh Sau khi học xong THPT mỗi HS sẽ có một con đường khác nhau trong việc lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân mình. Đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời, HS sẽ chịu tác động và ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Trong đó, yếu tố thuộc về bản thân HS là yếu tố quyết định đến quá trình lựa chọn nghề nghiệp của các em. Sự lựa chọn nghề nghiệp không phải diễn ra một cách tự phát, ngẫu nhiên. HS không thể hôm nay chọn nghề này, mai chọn nghề khác hoặc chọn nghề theo phong trào, theo sự áp đặt của người khác vừa phí thời gian, vừa lãng phí tiền bạc. Vì vậy, khi chọn nghề HS phải hiểu được chính mình, biết mình thích gì, muốn gì. Tất cả những điều đó phải chính bản thân mỗi HS biết được mà không cần người khác hiểu hộ, hiểu giùm được.
  • 41. ngành nghề phù hợp với khả năng, đúng sở thích thì HS phải trải qua một quá trình nghiên cứu, nghiền ngẫm về ngành mình sẽ chọn, sẽ học và theo đuổi mãi sau này. Phải tự đặt câu hỏi cho mình và tự trả lời: Mình có năng khiếu gì đặc biệt có năng lực gì nổi trội? Nếu vào học ngành đó mình sẽ gặp thuận lợi khó khăn gì? Việc nhận thức đúng đắn về bản thân góp phần rất quan trọng trong việc hình thành xu hướng chọn nghề của các em. Ngược lại, nếu nhận thức không đầy đủ, không đúng đắn về năng lực của mình sẽ dẫn đến việc chọn những ngành nghề không phù hợp với bản thân. Sự lựa chọn nghề sai lầm sẽ gây ra sự chán nản với công việc sau này mình sẽ học, sẽ làm. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến chính bản thân HS mà còn ảnh hưởng đến xã hội. Như vậy, xu hướng chọn nghề của HS chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như điều kiện kinh tế- xã hội, gia đình, nhà trường, bạn bè và bản thân HS. Trong các yếu tố trên, thì các yếu tố: Xã hội, gia đình, nhà trường, bạn bè chỉ đóng vai trò là điêu kiện cho việc chọn nghề của HS được tốt hơn. Bản thân HS là yếu tố quyết định. Bởi vì nếu những tác động từ gia đình, nhà trường, xã hội, bạn bè tốt hay không tốt thì chính bản thân mỗi HS sẽ tự quyết định việc chọn nghề cho bản thân mình. Tiểu kết chƣơng 1 Việc chọn nghề của học sinh THPT không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với cá nhân mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với xã hội. Ngày nay, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường việc chọn nghề của HS lớp 12 lại càng khó khăn hơn khi mà yêu cầu về nghề ngày càng cao và phạm vi lựa chọn nghề ngày càng lớn. Xu hướng chọn nghề của HS được thể hiện ở nhận thức nghề, thái độ chọn nghề và hành động chuẩn bị cho nghề nghiệp tương lai. Các yếu tố này chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khách quan và chủ quan. Việc nghiên cứu xu hướng chọn nghề cho HS là rất cần thiết. Nghiên cứu cơ sở lí luận của vấn đề này có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng các biện pháp giúp giáo dục xu hướng chọn nghề cho HS.
  • 42. NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Tổ chức nghiên cứu 2.1.1. Tổ chức nghiên cứu lý luận Từ tháng 10/2018 đến tháng 1/2019 tiến hành xác định vấn đề nghiên cứu, xây dựng đề cương nghiên cứu và tiến hành các tài liệu có liên quan phục vụ cho nội dung nghiên cứu. 2.2.2. Tổ chức nghiên cứu thực trạng Tiến hành từ tháng 2/2019 đến tháng 4/2019, với các bước cụ thể như sau: - Giai đoạn chuẩn bị nghiên cứu: Được tiến hành từ tháng 10/2018 đến tháng 1/2019. Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. Thiết kế công cụ nghiên cứu là phiếu điều tra dành cho học sinh trung học phổ thông. - Giai đoạn điều tra thử: Tiến hành tháng 3/2019 + Mục đích: Hoàn thành nội dung, hình thức của bảng hỏi. Hình thành các phương pháp xử lý kết quả nghiên cứu, hoàn thiện mẫu phiếu điều tra. + Tiến hành điều tra thử 60 phiếu, trong đó: Mỗi trường chọn điều tra thử 20 học sinh. - Giai đoạn điều tra chính thức: Tháng 3-4/2019, phiếu điều tra sau khi đã hoàn thiện được phát khảo sát chính thức cho 286 học sinh của 3 trường: THPT Nguyễn Đình Chiểu, THPT Tây Ninh, THPT Nguyễn Trãi. - Xử lý số liệu: Sử dụng các công thức toán thống kê trong nghiên cứu tâm lý học và giáo dục học với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS 16.0 để xử lý số liệu. 2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 1) Phương pháp nghiên cứu lý luận - Mục đích: Phương pháp này được sử dụng dể tìm hiểu khái quát những vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài. Những nghiên cứu về xu hướng nghề nghiệp dưới góc độ tâm lý. Qua đó nhằm làm rõ nội dung nghiên cứu. - Nội dung: Nghiên cứu những vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài như nghề nghiệp, phân loại nghề, xu hướng và một số vấn đề như xu hướng chọn nghề,
  • 43. ảnh hưởng đến xu hướng chọn nghề của HS… xây dựng bộ công cụ khảo sát thực trạng. - Phương pháp nghiên cứu: Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa lý thuyết để làm rõ cơ sở lí luân của vấn đề nghiên cứu và phương pháp lấy ý kiến chuyên gia. 2) Phương pháp phỏng vấn sâu - Mục đích: Trong nghiên cứu này, các phỏng vấn sâu thực hiện nhằm mục đích tìm hiểu xu hướng chọn nghề của hoc sinh trung hoc phổ thông. Tổng số phỏng vấn thực hiện: 16 phỏng vấn sâu. Đối tượng phỏng vấn bao gồm HS, giáo viên, cán bộ phụ trách hoạt động hướng nghiệp và dạy nghề ở địa phương, những biện pháp mà giáo viên đã sử dụng để giúp HS nhận thức đúng đắn về nghề và lựa chọn nghề hợp lý. - Nội dung: + Trò chuyện với HS về nhận thức nghề, quan niệm về vấn đề nghề nghiệp, các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng chọn nghề của các em, sự cần thiết của công tác hướng nghiệp và dạy nghề. + Những thuận lợi và khó khăn của HS trong việc chọn nghề của bản thân. + Trò chuyện với giáo viên về xu hướng chọn nghề của HS, những thành tích và những vấn đề còn tồn tại trong công tác giáo dục hướng nghiệp của nhà trường. - Yêu cầu thực hiện: Chọn thời gian phù hợp để trò chuyện với HS, giáo viên; đảm bảo sự trao đổi nhẹ nhàng, gợi mở khi cần thiết, tạo sự thoải mái về tâm lý cho đối tượng trò chuyện. Đồng thời ghi chép trung thực để có những thông tin bổ sung cho vấn đề nghiên cứu. 1) Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động - Mục đích: Tìm hiểu thêm sự lựa chọn nghề của HS, học lực, lí lịch trích ngang của HS. - Nội dung: Nghiên cứu các hồ sơ đăng ký dự thi của HS, bảng điểm học kỳ I của HS, một vài thông tin về gia đình (kinh tế, nghề nghiệp của cha mẹ…) - Yêu cầu thực hiện: So sánh, đối chứng các sản phẩm thu được với những thông tin thu được từ phiếu điều tra của HS. 3) Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi