Biểu tượng văn hóa và môi trường sinh thái năm 2024

Có thể lấy năm 1898 làm mốc ra đời của ngành khảo cổ học Việt Nam với sự thành lập Ủy ban Khảo cổ học Đông Dương, sau đổi thành Viện Viễn đông Bác cổ vào năm 1900. Đây là cơ quan đóng vai trò chủ yếu trong việc tìm kiếm, thu thập, lưu giữ và nghiên cứu những cổ tích ở Việt Nam và Đông Dương. Cùng với Viện Viễn đông Bác cổ, Sở Địa chất Đông Dương cũng có nhiều đóng góp cho ngành khảo cổ học, do các nhà địa chất làm việc ở đây đã phát hiện và nghiên cứu nhiều nền văn hóa khảo cổ thời đồ đá Việt Nam. Từ sau Hội nghị Quốc tế về Tiền sử học Viễn Đông lần thứ I tổ chức tại Hà Nội năm 1932, học giả phương Tây bắt đầu biết đến Việt Nam – ĐNA là một khu vực có nền văn hóa độc đáo, một nền văn minh ở trình độ cao chứ không phải là một khu vực trì trệ lạc hậu như quan niệm trước đây. Các học giả Pháp đã có công phát hiện các nền văn hóa sơ kỳ đá mới như Hòa Bình, Bắc Sơn…và bước đầu nghiên cứu các nền văn hóa thời kim khí như Đông Sơn, Sa Huỳnh. Từ sau năm 1954 đến nay các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện và nghiên cứu nhiều nền văn hóa thuộc các giai đoạn khác nhau, lấp được những “khoảng trống” trong lịch sử Việt Nam từ thời Tiền-Sơ sử đến các triều đại phong kiến sau này. Theo quy ước khảo cổ học chia làm hai ngành lớn là Khảo cổ học Tiền-Sơ sử và Khảo cổ học Lịch sử. Khảo cổ học Tiền-Sơ sử nghiên cứu về những di tích, di vật có niên đại thời đồ Đá và Kim khí, thuộc giai đoạn Trước Công nguyên. Còn đối tượng nghiên cứu của Khảo cổ học Lịch sử là những di tích di vật từ đầu Công nguyên về sau. Tất nhiên mốc thời gian này chỉ là tương đối tùy thuộc vào lịch sử từng quốc gia. Do khung niên đại thuộc thời Nguyên thủy là thời kỳ hình thành và phát triển Con Người và xã hội Loài Người nên Khảo cổ học Tiền-Sơ sử thường gắn liền với việc nghiên cứu môi trường tự nhiên, bối cảnh của di tích. Tức là nghiên cứu hệ sinh thái nhân văn thể hiện tác động qua lại giữa con người và quần thể sinh học, khả năng thích nghi của con người với môi trường sống. Vì vậy, trong phạm vi khảo cổ học có liên quan đến nội dung của Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên, có thể điểm lại một số thành tựu quan trọng của KCH Tiền-Sơ sử Việt Nam như sau.

Biểu tượng văn hóa và môi trường sinh thái năm 2024

Về thời đại đồ đá, chúng ta đã tìm thấy dấu vết của Homo Erectus có niên đại khoảng nửa triệu năm trong các hang động tỉnh Lạng Sơn, công cụ sơ kỳ đá cũ ở nhóm di tích Núi Đọ (Thanh Hóa), phát hiện văn hóa hậu kỳ đá cũ như Sơn Vi, mái đá Ngườm-Miệng Hổ. Tiếp tục có những phát hiện mới về các văn hóa Đa Bút, Quỳnh Văn, Thạch Lạc, Hoa Lộc, Hạ Long…để thấy được sự phân bố của nhiều lọai hình kinh tế trong một không gian khá rộng lớn vào hậu kỳ đá mới. Qua đó đã chú ý đến mối quan hệ giữa môi trường sinh thái và văn hóa tiền sử và tìm ra quy luật hoạt động kinh tế của người tiền sử Việt Nam-ĐNA. Những năm cuối TK XX khảo cổ học Việt Nam đã có những thành tựu quan trọng trong việc phát hiện các di tích đồ đá ở Tây Nguyên, một số văn hóa đồ đá bắt đầu được xác lập như Văn hóa Lung Leng, Biển Hồ…Nhiều địa điểm thuộc lưu vực sông Đồng Nai đã tìm thấy dấu tích công cụ đá cũ.

Về thời đại kim khí các nhà khảo cổ học VN đã đạt được những thành tựu rực rỡ: Việc phát hiện các nền văn hóa Tiền Đông Sơn ở lưu vực sông Hồng như Phùng Nguyên-Đồng Đậu-Gò Mun và một số văn hóa lưu vực sông Mã, sông Cả ở Bắc Trung bộ đã chứng minh nguồn gốc bản địa, tính thống nhất và đa dạng của văn hóa Đông Sơn, một nền văn hóa có địa bàn phân bố rộng rãi nhất trong thời kim khí. Đặc biệt còn tìm thấy mối quan hệ giữa những văn hóa khảo cổ này với giai đoạn lịch sử “huyền thoại” là Thời đại Hùng Vương: nền văn minh sông Hồng chính là biểu hiện cụ thể di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của thời dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc, thời kỳ ra đời nhà nước sơ khai Văn Lang của các vua Hùng. Thời kỳ Đông Sơn đã phát triển kinh tế trồng lúa ở địa bàn chủ yếu là đồng bằng và chăn nuôi nhiều gia súc, gia cầm.

Về phía Nam, văn hóa Sa Huỳnh được tìm thấy ở hầu hết các tỉnh NamTrung bộ. Giai đoạn Tiền Sa Huỳnh và các loại hình địa phương đã được tìm hiểu để góp phần nghiên cứu nguồn gốc và sự phát triển của văn hóa này. Ở Nam bộ đã xác lập được văn hóa Đồng Nai – một trung tâm kim khí mới có nhiều nét độc đáo riêng, đồng thời có những mối quan hệ giao lưu mật thiết với Sa Huỳnh, Đông Sơn và ĐNA, đặc biệt là những di tích ở Cần Giờ-TP.HCM. Hai văn hóa này cho biết phương thức sống chủ yếu của cư dân cổ là trồng trọt ở vùng bán sơn địa và khai thác thủy hải sản.

Một thế kỷ qua khảo cổ học Việt Nam đã đóng góp nguồn tư liệu quyết định trong việc khôi phục buổi bình minh của lịch sử Việt Nam, làm sáng tỏ hơn cội nguồn dân tộc và văn hóa Việt Nam. Khảo cổ học còn cung cấp nguồn sử liệu vật thật quan trọng để khôi phục một cách chân xác và sống động hơn lịch sử VN từ đầu Công nguyên đến đầu TK XX.

2.Khảo cổ học Nam bộ nhìn từ môi trường sinh thái.

Nam bộ có hai tiểu vùng sinh thái tự nhiên, cũng là hai tiểu vùng văn hóa phát triển liên tục từ thời cổ cho đến nay:

- Đông Nam bộ gồm lưu vực Đồng Nai, Sài Gòn, sông Bé, Vàm Cỏ với các dạng địa hình – hệ sinh thái đồi núi rìa cao nguyên, châu thổ cũ và khu vực rừng ngập mặn ven biển.

- Tây Nam bộ chủ yếu là châu thổ sông Cửu Long mới với tứ giác nước Long Xuyên – Đồng Tháp Mười kéo dài tới vùng ngập mặn bán đảo Cà Mau.

Sự phân chia tiểu vùng này tất nhiên chỉ là tương đối, với “ranh giới” chuyển tiếp Đông – Tây Nam bộ là Long An. Tuy “ranh giới” chỉ là tương đối nhưng trên quan niệm sinh thái nhân văn thì hai tiểu vùng sinh thái – văn hóa trên không thể gộp chung mà rõ ràng cần được nhìn nhận như một “phức hệ văn hóa” trên cơ sở sự đa dạng của địa hình – sinh thái.

2.1 Tiểu vùng văn hóa Đông Nam bộ. Cho đến nay, thành tựu quan trọng nhất của Khảo cổ học Tiền-Sơ sử Nam bộ, là việc nghiên cứu và xác lập văn hoá Đồng Nai. Sau thời đại Đồ Đá mà dấu vết phát hiện được còn khá ít ỏi, từ khoảng 4000 năm cách nay ở lưu vực sông Đồng Nai xuất hiện một lớp cư dân mới thuộc thời đại Kim khí - chủ nhân của văn hóa Đồng Nai. Sự phát triển của văn hóa Đồng Nai đã làm cho miền Đông Nam bộ trở thành một trong 3 trung tâm văn hóa lớn của Việt Nam trong thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên: Đông Sơn ở miền Bắc – Sa Huỳnh ở miền Trung – Đồng Nai ở miền Nam. Văn hóa Đồng Nai là bước mở đầu cho truyền thống văn hóa phát triển rực rỡ vào khoảng thời gian trước - sau Công nguyên và sẽ trở thành nguồn gốc bản địa của một văn hóa cổ ở Nam bộ: văn hóa Óc Eo (TK I – VII sau Công nguyên).

Biểu tượng văn hóa và môi trường sinh thái năm 2024

Hàng trăm di tích văn hóa Đồng Nai từ giai đoạn sớm đến muộn phân bố trên địa bàn rộng rãi của lưu vực Đồng Nai – Sông Bé – Vàm Cỏ, suốt từ vùng đồi gò cao đến vùng đất thấp ven biển. Trên quan điểm gắn liền việc nghiên cứu di tích khảo cổ với môi trường phân bố chúng, có thể phân chia văn hóa Đồng Nai thành 5 tiểu vùng văn hóa – sinh thái.

- Vùng đồi đá phiến và bazan đất đỏ (di tích hoạt động núi lửa) ở Đồng Nai. Đây là vùng phát sinh và phát triển quan trọng và liên tục của văn hóa Đồng Nai. Di tích ở đây có đủ các loại hình cư trú, mộ táng, công xưởng, diện tích thường rộng lớn và tầng văn hóa dày. Điển hình là các di tích Cầu Sắt, Suối Chồn, Phú Hòa, Hàng Gòn (Đồng Nai).

- Vùng đồi đá phiến và cao nguyên đất đỏ sông Bé tồn tại loại hình di tích đặc biệt là các công trình đắp đất hình tròn với hào sâu ở Lộc Ninh – Bình Long (Bình Phước).

- Vùng phù sa cổ dọc đôi bờ sông Đồng Nai, sông Sài Gòn tập trung dày đặc hệ thống di chỉ cư trú, mộ táng, công xưởng đơn ngành hay đa ngành.Tiêu biểu là di tích Bình Đa, Gò Me, Suối Linh, Đồi Phòng không (Đồng Nai), Dốc Chùa, Cù Lao Rùa, Bưng Sình (Bình Dương)…

- Vùng phù sa đất xám lưu vực sông Vàm Cỏ Đông -Tây ngày càng phát hiện được nhiều di tích quan trọng như An Sơn, Rạch Núi, Gò Ô Chùa (Long An)…với nhiều mộ táng huyệt đất di cốt còn khá nguyên vẹn.

- Vùng đồng bằng thành tạo chưa hoàn chỉnh ở cửa sông Đồng Nai là khu vực đầm lầy ngập mặn, rải rác trong đó có những bưng nước ngọt hoặc giồng đất nhỏ còn lưu lại dấu tích cư trú, sản xuất gốm, đá, mộ táng…Tiêu biểu là các di tích Bưng Bạc, Bưng Thơm, Giồng Lớn (Bà Rịa-Vũng Tàu), Giồng Phệt, Giồng Cá Vồ (Cần Giờ-TP.HCM)…

Tại năm tiểu vùng văn hóa – sinh thái này khảo cổ học đã phát hiện hàng ngàn di vật từ các chất liệu đá, gốm, đồng sắt, gỗ, xương, vỏ nhuyễn thể…Qua tổng thể di vật ở đây có thể biết được người xưa khai thác, sử dụng nguyên vật liệu sẵn có trong môi trường tự nhiên (và môi trường văn hóa thông qua trao đổi giao lưu) để chế tác công cụ lao động và các vật dụng cần thiết .

+ Đồ Đá là loại di vật phổ biến và số lượng lớn nhất ở loại hình công cụ lao động sản xuất. Đây cũng là đặc trưng quan trọng nhất của văn hóa Đồng Nai, nơi mà công cụ bằng đá chiếm ưu thế lâu dài trong suốt thời Tiền sử. Mặc dù đã ở vào giai đoạn hậu kỳ kim khí nhưng công cụ, vũ khí bằng đồng, sắt không nhiều, có lẽ do ở đây thiếu vắng nguồn quặng kim loại cần thiết nhưng khá phong phú nguồn nguyên liệu đá Bazan, đá phiến, sa thạch…rất thuận tiện cho việc chế tác công cụ, vũ khí mà phổ biến là rìu, cuốc, mai, dai hái, mũi tên, đục, bàn mài…Ngoài ra còn có nhiều loại vòng đeo tay, đeo tai. Một loại di vật độc đáo bằng đá của văn hóa Đồng Nai là những thanh đàn đá được tìm thấy ngay trong di chỉ khảo cổ như ở Bình Đa, Gò Me, một số di chỉ ở Bình Phước.

+ Đồ kim loại phát triển kỹ thuật đúc đồng với khuôn hai mang liên hoàn nhiều vật đúc. Các công xưởng lớn là Dốc Chùa, Suối Chồn, Cái Vạn, Bưng Bạc…Các loại hình phổ biến là rìu, giáo, lao, mũi tên, lưỡi câu, đục, lao ngạnh…Giai đoạn muộn còn phát hiện “kho Qua đồng” (một loại vũ khí) ở Long Giao (Đồng Nai). Trang sức có vòng, khuyên tai, lục lạc, vật đeo hình tượng thú. Đồ sắt chế tạo bằng kỹ thuật rèn thường thấy là giáo, lao, lưỡi câu, một vài cuốc sắt, kích thước khá lớn. Di vật sắt thường là đồ tùy táng trong mộ chum, lại được bọc vải cho thấy sự qúy hiếm của đồ sắt trong văn hóa Đồng Nai.

+ Đồ gốm và nghề làm gốm đã xuất hiện từ rất sớm và tồn tại lâu dài trong tất cả các di tích của văn hóa Đồng Nai. Di vật gốm có số lượng áp đảo so với những di vật thuộc các chất liệu khác. Tuy nhiên, hầu hết hiện vật chỉ còn là những mảnh gốm dày đặc trong tầng văn hóa nên phải chỉnh lý gắn chắp mới phục dựng để nhận biết được loại hình: phổ biến là các kiểu vò, nồi, bình, bát đĩa chân đế cao thấp khác nhau, nhiều kiểu bếp lò gốm (cà ràng), bi gốm, những dụng cụ lao động như dọi se sợi, chì lưới, bàn xoa gốm, cả khuôn đúc bằng gốm… đồ gốm là loại vật dụng được mang theo người chết nhiều nhất, cả vật thật và cả vật minh khí. Căn cứ vào kiểu dáng đồ gốm có thể nhận thấy địa bàn cư trú chính của cư dân cổ là môi trường sông nước, thể hiện qua các kiểu đồ đựng đáy bằng, đáy tròn, nhất là bếp lò bằng gốm rất nhiều (đây là vật dụng cần thiết cho cư dân sống trên ghe xuồng hay nhà sàn mà ta quen gọi là Cà ràng). Ngoài ra, còn có loại gốm đáy nhọn, đáy tròn phổ biến ở vùng ven biển khắp thế giới. Giai đoạn muộn của văn hóa Đồng Nai còn hiện diện những di tích mộ táng quan tài chum gốm lớn, tập trung ở ven biển Cần Giờ TP.HCM và ở khu vực đồi bazan Xuân Lộc Đồng Nai. Đây cũng là táng tục phổ biến của cư dân cổ ven biển ĐNA kéo dài lên Đông Bắc Á.

+ Đồ gỗ tìm thấy khá nhiều ở các di tích bưng lầy vùng sinh thái ngập mặn như Bưng Bạc, Bưng Thơm…gồm nhiều loại công cụ lao động, chưa kể dấu tích cọc nhà sàn dày đặc ở đây.

+ Đồ xương và vỏ nhuyễn thể cũng phổ biến ở những di tích ven biển. Hiện nay tại một số di tích trong vùng Đồng Tháp Mười (Long An) cũng tìm thấy nhiều di cốt động vật rừng bên cạnh vỏ nhuyễn thể biển.

Điểm qua chất liệu và loại hình di vật của văn hóa Đồng Nai để có căn cứ tìm hiểu về đời sống của cư dân cổ Đông Nam Bộ. Các nhà nghiên cứu cho rằng hình thức quan trọng và phổ biến nhất, trong đời sống kinh tế truyền thống ở đây là trồng trọt trên vùng bán sơn địa không dùng sức kéo, gồm lúa cạn, các loại rau đậu, cây có quả củ…bằng phương pháp phát đốt đặc trưng của nông nghiệp nương rẫy. Bên cạnh đó vẫn duy trì lâu dài phương thức khai thác sản phẩm rừng bằng săn bắt hái lượm, sản phẩm thủy hải sản bằng cách đánh bắt, câu…Văn hóa Đồng Nai cũng xuất hiện sự chuyên môn hóa các nghề thủ công khá sớm. Có thể nhận thấy những “công xưởng” như Suối Linh, Đồi Phòng Không, Bưng Bạc, Bưng Thơm, Dốc Chùa, Cù Lao Rùa, Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt…không chỉ sản xuất đáp ứng nhu cầu tại chỗ, mà đã đạt đến trình độ sản xuất hàng hóa nhất định để trao đổi trong vùng và còn trao đổi đến những vùng xa hơn ở ĐNA lục địa và hải đảo…